March 29, 2024 Những chặng đường Thầy đã đi qua, Phương Tuấn.
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG NÀO THẦY ĐÃ ĐI QUA
Sáng hôm nay trong không khí tĩnh lặng của một sáng mùa xuân, con nhìn lại những chặng đường Thầy đã đi qua. Nhiều lắm, không kể những chặng đường Thầy đi trước năm 30 tuổi, để sửa soạn cho ba năm đi truyền bá Phúc Âm.
Đúng là những chặng đường gió bụi, vui có, buồn có, bị xua đuổi có, bị ném đá có, vinh quang có, tủi nhục có, đau thương có và chặng đường lên Golgotha…
Bên dòng sông Jordan, chỗ nước cạn có Gioan Tẩy Giả (John the Baptist), Thầy đã bước xuống nước để ông “rửa tội” cho Thầy. Thầy làm gì có tội khi mình là Con Thiên Chúa, nhưng Thầy làm gương cho các con đi sau. Một con chim câu đã đến đậu trên đầu Thầy và Gioan Tẩy Giả đã nghe tiếng nói từ trời cao:
“Đây là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đàng”
(This is my beloved Son in whom I am well pleased).
Ba năm ròng rã, Thầy đi trong nắng sớm mùa xuân, trong nắng gắt mùa hạ, trong những ngày dịu mát mùa thu, trong những ngày đông băng giá.
Thầy đã nói lời yêu thương bảo chúng con là những người có phước vô cùng vì các con không mồ côi trên đường trần gian nan, khổ ải này. Các con có một Người Cha trên trời thương yêu chúng con vô cùng bằng một TÌNH YÊU VÔ ĐIỀU KIỆN.
Thầy dạy các con bài học “YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ”.
Trên đường đi Thầy đã chữa cho người liệt được đi, người câm điếc được nghe và nói, người mù được thấy, kể cả người mù từ lọt lòng mẹ như ngươi ăn mày mù thành Giêsusalem.
Thầy đã nuôi ăn 5,000 người đàn ông không kể đàn bà và con trẻ với 5 ổ bánh mì và hai con cá. Và một lần nữa Thầy đã nuôi ăn 4,000 người đàn ông trong trường hợp tương tự.
Khi trên đường Thầy thấy cảnh thương tâm, người đàn bà góa khóc thảm thiết khi đưa đám ma đứa con độc nhất của mình, Thầy đã vực anh ta sống lại.
Thầy đã gọi Lazarô người bạn Thầy thương ra khỏi mồ, khi ông đã chết, xác nằm trong mồ bốn ngày…
Có những ngày vui, khi Thầy và 12 tông đồ ghé lại làng nhỏ Bethany, có gia đình Lazarô, Martha và Mary thương mến Thầy. Cô Mary ngồi dưới chân Thầy nghe lời Thầy giảng dạy, và Martha từ dưới bếp chạy lên phân bì rằng Mary chẳng giúp gì việc bếp núc để sữa soạn bữa cơm đãi Thầy và các tông đồ, và Thầy đã bảo:
”Martha, Martha, con lo lắng nhiều điều, và Mary đã chọn phần tốt nhất, không có ai có thể lấy phần đó của Mary”.
Có ngày Thầy trở lại quê hương Nazareth, nơi Thầy sinh ra, những tưởng đã được yêu thương, nhưng không, người dân ở đây đã dè bỉu và bảo chẳng phải Thầy là con ông thợ mộc Giuse sao? Họ đã xua đuổi Thầy ra khỏi làng, định đẩy Thầy xuống vực từ dốc cao. Quả thật không có nhà tiên tri nào được vinh danh trên chính quê hương của họ.
Có những ngày Thầy đã bị ném đá, có những ngày người Do Thái đã đóng cửa các giáo đường không cho Thầy vào giảng Phúc Âm. Có những ngày Hội Đồng Do Thái Giáo ra trát bắt Thầy, Thầy và các tông đồ phải tránh đi nơi khác, vì giờ của Thầy chưa đến.
Có những ngày đói, Thầy và các tông đồ đi ngang qua ruộng lúa đã bứt các hạt lúa để ăn (Đây có thể là các ruộng bắp chăng?) và đó là ngày Sabbath. Người Pharisêu giả hình đã bảo không được làm việc này trong ngày tối trọng?
Có ngày Thầy vào thành Giêrusalem trên con lừa con, và dân chúng tung hô, trải lá lót đường cho Thầy đi, nhưng cũng có một số trong các người này mấy ngày sau đã bảo phải treo Thầy trên thập giá”.
Một ngày hè nắng cháy, Thầy cùng các tông đồ sau một ngày đi đường từ Galilee băng qua Samaria, gió sa mạc thổi về khô khốc, Thầy dừng lại bên bờ giếng Jacob xưa xin người đàn bà Samaritan nước uống, và bà Nalda đã hỏi Thầy:”Ông là người Do Thái lại hỏi xin tôi là người Samaritan nước uống?”. Thầy bảo bà :”Nếu bà biết Ta có nước hằng sống, bà sẽ hỏi Ta xin nước đó”...Nalda bảo:”Người Samaritan chúng tôi thờ Thiên Chúa trên núi Gerizim , còn người Do Thái bảo phải thờ Thiên Chúa trong đền Thánh Giêrusalem, còn Ngài, Ngài bảo thờ phượng Thiên Chúa nơi đâu?”, và Thầy đã bảo:
“Đã đến lúc không thờ Thiên Chúa trên núi Gerizim hay trong đền thờ Giêrusalem, nhưng thờ Ngài trong CHÂN LÝ và SỰ THẬT”.
Trên đường đi Thầy dạy chúng con “ĐỪNG PHÁN XÉT ĐỂ KHỎI BỊ PHÁN XÉT”, như trong chuyện người “Đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang”, khi đám đông kết án bà đã đi hết, khi nghe Thầy bảo họ :”Ai trong các người nghĩ mình là người vô tội hãy ném đá người đàn bà này trước đi”. Và Thầy bảo bà :”Phần Ta , Ta cũng không phán xét con, con về đi và đừng phạm tội nữa”.
Thầy cũng cho chúng con biết tình thương bao la của người cha trong dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” sau khi đã ăn năn, trở về nhà đã được người cha mở rộng vòng tay đón con về, vì “đứa con đi lạc nay lại về, đứa con tưởng đã chết, nay sống lại”.
Trong dụ ngôn “Những nén bạc”, người chủ sắp đi xa, giao cho gia nhân một người 10 nén, một người 5 nén, một người một nén. Khi trở về người chủ hỏi những nén bạc đó các gia nhân đã làm những gì?
Đây là Những Nén Bạc Tình Yêu, Thiên Chúa đã gửi cho chúng con khi xuống trần gian này, để các con làm lời thêm những nén yêu thương khác, chứ không phải đào đất chôn giấu đi.
Biết bao nhiêu điều nữa Thầy dạy chúng con trên đường Thầy đi. Và ngày cuối cùng trong bữa Tiệc Ly Thầy đã bảo:
”Nay Thầy cho chúng con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con”.
Câu này hoàn toàn khác câu “hãy yêu thương nhau”, vì đây Thầy dặn các con “ yêu như Thầy đã yêu, yêu đến tận cùng, chết vì người mình yêu”. Vì không có gì cao quý cho bằng hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu. Thầy dạy chúng con một điều khó quá, làm sao chúng con theo được đây.
Hôm nay là Ngày Thứ Sáu, cách đây gần hai ngàn năm, Thầy đã bị quân La Mã bắt qua đêm trong vườn Gethsemane, như một tên trộm cướp. Thầy đã bảo chúng: “ Ta đã giảng thuyết trong các giáo đường, sao không bắt Ta trong những ngày đó, lại bắt Ta trong đêm khuya như một kẻ trộm hay tên ăn cướp. Ta đã làm nên tội gì?”
Đêm thứ năm rạng ngày thứ sáu đó đã xảy ra một cuộc xử án oan vô tiền khoán hậu. Thầy đã bị trói tay và dẫn về từ vườn Gethsemane đến dinh Thượng phẩm Annas, qua dinh Thượng phẩm Caiaphas, qua dinh quan Tổng trấn Philatô, qua dinh vua Herode, trở về dinh Philatô, bị đánh bằng roi da, và bị kết án tử qua đêm, không luật sư biện hộ. Lỗi chính của Thầy vì Thầy không chối và dõng dạc trả lời Philatô rằng Thầy là Con Thiên Chúa.
Trong lịch sử loài người không có một vụ án nào quan trọng lại phải xử qua đêm ngay sau khi bắt tội nhân, và chỉ có mấy tiếng đồng hồ lên án tử và thi hành án ngay sau đó. Đây là vụ án oan rúng động thế gian cho đến ngày hôm nay 2,000 năm sau.
Trên thập giá, Thầy đã không hận thù, oán ghét những kẻ hành hạ mình, xử án và đóng đinh mình trên thập giá. Trước khi tắt hơi thở cuối cùng Thầy đã cầu nguyện:
”Lạy Cha , xin Cha tha tội cho họ vì họ không biết việc họ làm”.
Thầy nói câu này lúc 3 giờ chiều ngày thứ sáu trên 2,000 năm trước. Câu nói này của Thây năm xưa nay vẫn còn vang vang trong tâm trí các con, dạy cho chúng con biết, phải lấy ân trả oán, phải lấy điều thiện đối lại cái ác, được như vậy oán sẽ được giải , nếu không oán oán sẽ trùng trùng.
Câu nói trên đã nói lên lòng đại hùng, đại từ bi của Thầy. Trong đau đớn tột cùng của thể xác, Thầy đã yêu thương và không kết tội kẻ hại Thầy, chính điều này đã cho Thầy bình an trong tâm hồn. Đây là bài học tha thứ Thầy dạy chúng con, chỉ khi các con tha thứ được cho những ai làm buồn lòng chúng con, chúng con mới có bình an.
Giêsu thương mến,
Nhìn lại những chặng đường Thầy đã đi qua trong ba năm cùng các tông đồ, có vui, có buồn, có gian khổ, có đau thương, có chết chóc, lòng con tràn đầy thương cảm. Thầy đã dạy con không biết bao nhiêu điều thiện. Đây là những hành trang con phải mang theo trên trần gian khổ ải này để con biết sống yêu thương, phục vụ, tha thứ. Xin Thầy giúp con sống được như lời Thầy dạy để lòng con luôn yên vui và có bình an, thứ bình an thế gian không cho được.
Phương Tuấn
Comments
Post a Comment