November 6, 2024 America the Beautiful_Tạ ơn mãnh đất này.
America, the Beautiful – Tạ ơn mảnh đất này --- (Tác Giả : Điệp Mỹ Linh - BM)
Posted by: lpk 116
America, the Beautiful – Tạ ơn mảnh đất này --- (Tác Giả : Điệp Mỹ Linh - BM)
America, the Beautiful – Tạ ơn mảnh đất này
Ngày đăng : 2024-10-31 |
Vừa
rời chiếc xe buýt của công ty du lịch Trafalgar, tôi chú ý ngay đến một
nhóm đàn ông lớn tuổi, người Nga, ngồi bên trái lối đi, cạnh con kinh
đào. Mỗi ông mang một nhạc cụ nhà binh như saxophone, trumpet, clarinet,
v.v. Không hiểu có phải vì nghe những tiếng thầm thì bằng Anh ngữ của
du khách hay không mà bỗng nhiên cả ban nhạc đều đứng lên, cử hành Quốc
Ca Hoa-Kỳ.
Hình minh họa
Nhóm
du khách và tôi đều dừng bước, ngạc nhiên, vì đây là lãnh thổ của Nga.
Du khách Mỹ để tay phải lên lồng ngực bên trái. Nhìn các nhạc công, tôi
nghĩ, có lẽ họ là những người lính trẻ nhất của trận thế chiến thứ II.
Tôi cảm thấy nao nao buồn. Những người lính già nua, yếu đuối đang cố
kéo chút hơi tàn để tìm sự sống qua bản Quốc Ca của kẻ thù xưa, vì lương
hưu của cựu chiến binh Nga rất thấp!
Bản
nhạc dứt. Du khách vui vẻ lấy tiền cho vào cái xắc nhỏ được đặt trước
mặt các nhạc công. Các nhạc công ngồi xuống, đồng tấu tiếp nhạc khúc
America, the Beautiful. Tôi đứng lặng, lòng đầy xúc động.
Niềm
xúc động trong tôi lần này cũng dạt dào như năm 1977, khi Xuân Nguyệt –
con gái lớn của tôi – lúc đó là học sinh lớp 8, được trao tặng giải
nhất toàn tiểu bang Arizona về bài luận văn “What Makes America The Beautiful?”
Gia
đình tôi được giúp phương tiện để đưa Xuân-Nguyệt từ Yuma, Arizona, đến
Phoenix nhận phần thưởng trong một buổi lễ vô cùng long trọng. Đó là
lần đầu tiên tôi nghe bản America, the Beautiful được cả hội trường đồng
ca. Tự dưng tôi khóc. Nhưng rồi âm điệu và lời ca của bản nhạc khiến
lòng tôi lắng xuống. Tôi trầm tĩnh lại để nhận những vòng tay thân ái và
những lời chúc mừng của những người Mỹ quanh tôi. Theo những lời chúc
mừng của những người chưa quen này, tôi hiểu những người này nghĩ rằng
tôi xúc động vì thành quả của con gái tôi. Điều đó chỉ đúng một phần;
vì, ngoài sự hãnh diện của một người Mẹ, những giọt nước mắt của tôi còn
mang nặng niềm âu lo và sự lạc lõng trước một tương lai đầy thử thách
mà tôi không hiểu tôi có thể vượt qua được hay không!
Hơn
26 năm qua, với tất cả hy sinh và nỗ lực, gia đình tôi đã vượt qua được
nhiều trở ngại. Các con/dâu/rể của tôi hiện đang đem tất cả khả năng và
kiến thức đã học hỏi/đã hấp thụ tại đất nước này để góp công xây dựng
một nơi mà ai cũng hơn một lần ước mơ được nhìn tận mắt sự văn minh và
phồn thịnh.
Riêng tôi, ngoài sự văn minh và phồn thịnh, nước Mỹ còn có những công dân với trái tim rất vỹ đại.
Chỉ
có những trái tim vỹ đại mới có thể thực hiện những chuyến bay đầy thực
phẩm/đầy thuốc men cùng những phái đoàn y tế tình nguyện sang Phi-Châu
cứu đói. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới sáng tác và hát say sưa nhạc
khúc We Are The World để quyên góp hiện kim gửi sang Phi-Châu cứu đói.
Chỉ có những trái tim vỹ đại mới đưa nhiều phái đoàn y dược sỹ, dụng cụ y
tế sang Nga cứu giúp khi lò nguyên tử của Nga – tại Chernobyl – bùng
nổ. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới có thể thực hiện những chuyến bay
khẩn cấp để di chuyển hằng mấy trăm em bé mồ côi ra khỏi Việt-Nam vào
cuối tháng Tư năm 1975. Chỉ có những trái tim vỹ đại mới cứu giúp hết
đợt di dân này đến đợt di dân khác.
Trong số triệu triệu di dân đó có gia đình tôi. Gia đình tôi xin biết ơn:
The Making of We Are the World - USA for Africa - 1985
Cựu
Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến và bà Michael Z. Smith, người đã bảo trợ
chúng tôi từ Camp Pendleton. Ông bà Smith có ba người con: Michael, hiện
là Đại-Úy Không Quân Hoa-Kỳ và cô con gái nuôi, người Nhật, Kristin
cùng với bé Heather. Hiện nay ông Smith là một mục sư ở California.
Ông
bà Collins. Ông Collins từng tham chiến tại Việt-Nam. Ông được một gia
đình Việt-Nam che chở trong khi Việt-Cộng ruồng bắt. Ông Collins bảo vì
Ông mang ơn người Việt cho nên Ông thương và muốn giúp đỡ người Việt với
tất cả nhiệt tình. May mắn cho chúng tôi, vì chúng tôi là gia đình
Việt-Nam duy nhất tại thành phố Yuma.
Ông
bà Collard, người đã thật lòng thương yêu gia đình tôi như ruột thịt.
Ông bà thường vui vẻ và hãnh diện giới thiệu với mọi người rằng chúng
tôi là con và cháu của ông bà.
Tôi
không hề biết ông Collard là một cựu chiến binh thế chiến thứ II; vì
không bao giờ Ông nhắc nhở hoặc đề cập đến cuộc chiến khốc liệt đó. Đến
khi Ông Collard qua đời, người bạn đồng ngũ của Ông đọc điếu văn, tôi
mới biết ông Collard có mặt trong trận Trân-Châu-Cảng. Chính ông Collard
đã cứu giúp nhiều người, kể cả người đang đọc điếu văn, rời khỏi chiến
hạm… và Ông là người vượt thoát sau cùng.
Sự
hiểu biết của tôi về quân nhân Hoa-Kỳ trong trận Trân-Châu-Cảng hoặc
Normandy chỉ căn cứ theo sách vở và phim ảnh cho nên rất mơ hồ/rất hạn
hẹp. Nhưng sự hiểu biết của tôi về sự hy sinh và lòng quả cảm của người
lính Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt-Nam thì khá tường tận – tường tận
hơn cả những cuốn sách viết về chiến tranh Việt-Nam mà tác giả chưa bao
giờ có mặt tại chiến trường Việt-Nam. Do đó, tôi nhận thấy, dù cuộc
chiến kết thúc một cách tức tưởi, thiếu công bằng, nhưng cũng phải chấm
dứt; vì máu của người Việt – cả hai miền Nam Bắc – và máu của người Mỹ
đã chan hòa trong từng thước đất nơi quê hương nghèo khó của tôi.
Sau
khi miền Nam bị bức tử, hạm đội Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa đã di tản
hơn 30 ngàn người Việt thoát khỏi hiểm họa Cộng-sản. Nhưng nếu không có
sự hiện diện của Đệ-Thất Hạm-Đội Hoa-Kỳ tại Thái-Bình-Dương cũng như
không có sự giúp đỡ vô điều kiện của nhân dân Hoa-Kỳ thì số người tỵ nạn
khổng lồ như chúng tôi sẽ về đâu?
Nương vào lòng nhân ái của người Mỹ, chúng tôi vào Mỹ với thái độ biết ơn và lòng tự tin để vươn lên.
Người Việt, qua bao thử thách cam go, đã vươn lên, đã góp công xây đắp và bảo vệ đất nước này.
Khi
cuộc chiến Trung-Đông bùng nổ, năm 1992, tôi đã đau buồn và lo sợ khi
đưa tiễn một độc giả trẻ và thân thiết nhất của tôi – Hải-Quân Đại-Úy
Hoàng Quốc Tuấn, tòng sự trên hàng không mẫu hạm USS Independence – ra
khơi, tiến về vùng lửa đạn của Persian Gulf. Trong lá thư gửi về từ vùng
Vịnh, Tuấn viết: “… Người lính Hoa-Kỳ được huấn luyện để bảo vệ Hòa-Bình chứ không phải để gây chiến …” Theo
tinh thần cao cả đó, biết bao thanh niên nam nữ Vietnamese-American đã
tốt nghiệp hoặc đang thụ huấn tại các quân trường lừng danh của Hoa-Kỳ
như West Point Academy, Naval Academy, Air Force Academy, v. v…
Ngoài
những tham gia đáng kể về quân sự, giới trẻ Việt-Nam cũng đã và đang
xây đắp đất nước này trong tất cả mọi lãnh vực như truyền thông, giáo
dục, y tế, khoa học, khoa học không gian, v. v…
Giới
trẻ Việt-Nam có những đóng góp lớn lao như vậy thì những nỗ lực của thế
hệ di dân Việt-Nam đầu tiên cũng không nhỏ. Thử nhìn bản đồ của các
thành phố lớn như Los Angeles, Orange County, San José, Houston, v. v…
thì sẽ thấy: Từ những vùng đất hoang tàn cách nay 20 năm, bây giờ đã trở
thành những vùng thương mại sầm uất do người Việt khai thác. Và trong
các hãng, xưởng, văn phòng, biết bao người mang họ Nguyễn, Lê, Trần …
Khi
những đóng góp của người Việt vào đất nước này mỗi ngày mỗi thăng tiến
thì bỗng dưng sự phá hoại từ đâu ùa đến, phủ chụp xuống ngay lòng đất
nước mà gia đình tôi đã âm thầm nhận là quê hương thứ hai!
Tin
Nữu-Ước và Hoa-Thịnh-Đốn bị máy bay tấn công đến với tôi trong lúc tôi
cùng nhóm du khách dùng cơm trưa sau những giờ thăm viếng thành phố
Minks. Tôi ngồi bất động, lòng đầy phẫn uất. Nếu bảo rằng tôi không lo
sợ thì không hẳn đúng; nhưng niềm lo sợ trong tôi bây giờ khác hẳn với
sự hãi sợ của đứa bé gái – giữa thập niên 40 – theo Cha Mẹ ra “vùng giải phóng” và thấy những chiếc máy bay mang cờ tam tài (cờ Pháp) bắn phá những làng mạc xác xơ.
Những
chiếc máy bay đó bắn vào tất cả những vật thể nào di động; vì vậy nông
dân không dám ra đồng, súc vật bị giết hại, sinh sản không kịp và con
người thì đói và thiếu thốn mọi bề.
Hơn
hai mươi năm sống yên lành tại miền Nam nước Việt và hơn hai mươi năm
sống thanh bình trên đất Mỹ, tôi cứ ngỡ rằng bom đạn đã xa tôi, không
còn cơ hội làm tôi sợ hãi nữa. Nhưng không! Trên màn ảnh TV, một tòa nhà
của The World Trade Center bốc khói và một chiếc máy bay lao thẳng vào
tòa nhà thứ hai. Cả hai tòa nhà lần lượt sụp xuống trong khi niềm phẫn
uất trong tôi dâng cao như những cuộn khói đen ngòm thoát ra từ The Twin
Towers! Tình cảm trong tôi chẳng khác gì nỗi đau xót của tôi cách nay
hơn một phần tư thế kỷ, khi Việt-Cộng pháo kích ồ ạc vào Saigon – thủ đô
miền Nam Việt Nam!
Là
một phụ nữ được giáo dục chỉ để nuôi con và phục tòng chồng, ngày đó,
trước thảm trạng của quê hương Việt-Nam, tôi chỉ biết viết những dòng ca
ngợi tinh thần chiến đấu can cường của Người Lính Việt-Nam Cộng-Hòa và
tôn vinh lòng hy sinh vô bờ của những người Mẹ, người vợ và người con.
Bây
giờ, trước sự đổ nát và thiệt hại nhân mạng một cách phi lý và tàn bạo
tại Nữu-Ước và Hoa-Thịnh-Đốn, tâm hồn tôi bị chấn động mạnh và tôi muốn
viết ra những ý nghĩ thầm kín của tôi về một nơi chốn mà gia đình tôi âm
thầm thọ ơn. Ý nghĩ này làm cho cuộc du lịch giảm thiểu nhiều phần
thích thú. Cuộc du lịch này chỉ vì sự tò mò của tôi, muốn tìm hiểu về
một nước Nga cộng sản.
Nước
Nga rộng lớn nhưng môi người Nga không đàn hồi cho nên người Nga không
biết cười. Thức ăn của người Nga thường là những miếng thịt dai dừ – mà
không ai đoán được và cũng không ghi trong thực đơn là thịt gì – được
tẩm trứng hoặc bột rồi chiên, không mùi vị, ăn đệm với khoai tây. Lâu
lắm, may ra mới có một bữa thịt gà. Thức ăn của Mỹ như các loại kẹo, ice
cream và sản phẩm của hãng Coca Cola được bày bán khắp nơi. Tôi cũng
thấy vài nhà hàng McDonald’s và Pizza Hut. Sản phẩm tiểu công nghệ của
Nga như thủy tinh và đồ gỗ thì tuyệt đẹp, vì được làm bằng tay. Hệ thống
Metro của Nga tại Moscow rất tối tân, dù đã được hoàn tất cách nay nửa
thế kỷ. Cứ 30 giây – vâng, 30 giây – thì một chuyến tốc hành đến và một
chuyến đi ngược lộ trình với chiếc kia. Trong sinh hoạt hằng ngày, người
Nga không ăn mặc giản dị, xềnh xoàng như người Mỹ. Những buổi trình
diễn ballet, skate on ice làm tôi say mê bao nhiêu thì những màn vũ dân
tộc và những bản dân ca cũng khiến hồn tôi giao động bấy nhiêu. Âm hưởng
dân ca của Nga mang nặng niềm thống thiết của dân du mục.
Dân
Nga rất kiêu hãnh về Red Square, vì đó là biểu tượng của thủ đô. Khi
thấy trong hình và phim ảnh, tôi cũng nghĩ Red Square rất vỹ đại. Nhưng
sau khi thấy tận mắt, tôi nghĩ – không phải vì định kiến chính trị – Red
Square không là gì cả; vì thiếu sự hài hòa giữa thiên nhiên và nhân
tạo. Khu vực Red Square được lát bằng gạch, trên triền đồi thoai thoải,
diện tích khoảng một phần ba của công trường Thiên-An-Môn. Phần cao nhất
của Red Square là tòa nhà của chính phủ và mộ của Lenin. Chân đồi bên
này là ngôi nhà thờ với những chóp cao hình tròn, chạm trổ và sơn phết
rất rực rỡ. Chân đồi bên kia chỉ là một lối đi rộng lớn. Lối đi này, vào
những dịp diễn hành để phô trương lực lượng, được Hồng Quân Nga cũng
như thiết giáp và các cơ giới nặng dùng làm lối ra. Bây giờ, trên lối ra
này, người ta xây một ngôi nhà trên cao, phía dưới để trống vừa đủ cho
bộ hành và xe hơi nhỏ ra vào. Lối vào Red Square, phía nhà thờ, cũng
được chận lại bằng nhiều dãy trụ xi-măng, với mục đích không cho thiết
giáp và cơ giới nặng vào điện Cẩm-Linh.
Trước
điện Cẩm-Linh, ban đêm, trong khi những cặp tình nhân trẻ thủ thỉ bên
nhau những lời mặn nồng thì những người Nga lớn tuổi lại chậm bước, lòng
hướng về một thủ đô đã đổi tên: St. Petersburg.
St.
Petersburg là một thành phố mang nặng di tích lịch sử của Nga-Hoàng.
St. Petersburg không chinh phục được cảm tình của tôi nếu không có ngôi
nhà thờ cổ còn hằn vết đạn của thời Hitler xâm lược và những bức tranh
đầy sinh động của Ivan Aivazovsky, Wassily Kandinsky, Pavel Filonov, v.
v…
Những
dòng sông ở St. Petersburg đã để lại trong hồn tôi rất nhiều lưu luyến.
Những dòng sông im lìm, nhẫn nhục, chỉ biết len lõi trong từng ngõ
ngách của thành phố trước sự kiêu căng thách đố âm thầm nhưng lố bịch
của từng dãy lâu đài nguy nga. Lúc xuôi theo giòng Neva, trong khi mọi
người lưu ý đến mấy chiếc cầu dựng đứng – vào những giờ nhất định – để
tàu thủy có thể đi qua, thì tôi chỉ nghĩ đến những gì tôi đã thấy trên
đoạn đường loan lỡ sau khi vào biên giới Nga.
Trên
đoạn đường loang lở đó tôi đã thấy những xóm nhà lụp xụp. Thỉnh thoảng
tôi mới thấy một chiếc xe hơi cũ thật cũ đậu dưới tàng cây, không biết
xe còn xử dụng được hay không. Nơi khoảng sân hẹp, mỗi nhà thường cất
một cái chòi nhỏ, mái và chung quanh được bọc ny-lông, để trồng hoa màu.
Tôi cũng thấy người dân quê canh tác bằng tay chứ không bằng máy.
Những hình ảnh nghèo khó này cứ theo tôi mãi.
Nhưng
khi đến Minsk, mọi hình ảnh đều bị đẩy lùi về quá khứ, chỉ còn trong
tôi nỗi xót xa của một người vừa biết nơi mình nương náu hơn hai mươi
năm qua đang bị xâm phạm nặng nề! Từ Minsk đến Riga, tôi thấy các thành
phố đều treo cờ rũ và mọi người dân địa phương có vẻ sốt ruột, dán mắt
vào TV hoặc ngóng tin tức từng giờ. Điều làm cho tôi xúc động nhất là
hôm 14-09, lúc 12 giờ trưa, tại khách sạn Scandic thuộc thành phố
Helsinki của nước Finland, ban giám đốc đã yêu cầu mọi người đứng
nghiêm, dành năm phút mặc niệm để tưởng nhớ những nạn nhân của khủng bố
tại Hoa-Kỳ.
Trong
khi đứng nghiêm tôi vẫn bị những lời tường trình của xướng ngôn viên
đài truyền hình CNN – từ chiếc TV lớn treo nơi góc phòng khánh tiết –
chi phối. Tôi đau đớn, xốn xang trong lòng như ngày xưa, năm 1968, hay
tin Việt-Cộng tấn công và cưỡng chiếm thành phố Huế, quê Ngoại của tôi.
Sau
khi Huế được quân lực Việt-Mỹ giải tỏa, tôi nôn nóng muốn trở về để
nhìn sự tang thương và đổ nát của quê Ngoại. Bây giờ, tại phi trường
Helsinki đợi máy bay để sang Frankfurt, tôi cũng nôn nóng muốn trở về
một nơi mà tôi gọi là nhà – Home. Nhưng bà nhân viên hãng hàng không
Lufthansa, sau khi nhìn vé máy bay và thấy rõ ràng tôi không phải là một
người da trắng, tóc màu, đã khẳng định:
–
Bà có vé. Tôi sẽ ghi tên bà vào danh sách, nhưng sẽ không có chỗ cho
bà. Bà phải chờ, vì đây là chuyến phản lực 747 đầu tiên từ Đức vào lục
địa Hoa-Kỳ.
– Vé của tôi mua từ lâu, tại sao bây giờ tôi phải chờ? Và chờ đến bao giờ?
–
Rất tiếc, tôi không biết bà phải chờ đến bao giờ. Khi nào có chỗ chúng
tôi sẽ thông báo cho bà. Hiện tại, chúng tôi có rất nhiều hành khách ứ
đọng từ mấy ngày qua. Và chuyến bay này, từ Helsinki đến Frankfurt để về
Nữu-Ứớc, chỉ dành ưu tiên …
Không đủ kiên nhẫn chờ bà ấy nói hết câu, tôi cắt ngang:
– Tại sao tôi mới rời nhà chỉ có hai tuần mà nay tôi không thể trở về, hả?
Bà ấy ngạc nhiên, nhìn tôi, gằn giọng:
– Nhà?
Tôi đáp với giọng nghèn nghẹn như sắp khóc:
– Vâng. Nhà của tôi.
– Cho tôi xem thẻ thông hành.
Chỉ nhìn thoáng qua Passport, bà ấy thay đổi thái độ ngay:
– Vâng. Bà là công dân Mỹ. Bà ưu tiên đi chuyến bay này.
Tôi
cúi xuống xách hành lý, lòng âm thầm tạ ơn nước Mỹ, nơi đã cho tôi hiểu
thế nào là giá trị thực tiễn của tự do, dân chủ và công bằng. Và trên
tất cả mọi điều, nước Mỹ đã cho tôi cơ hội thể hiện tinh thần tự lập của
một phụ nữ.
Điệp Mỹ Linh
Attachments area
Comments
Post a Comment