July 30, 2025. MƯA HAY NƯỚC MẮT QUÊ HƯƠNG, Phương Tuấn.
MƯA HAY NƯỚC MẮT QUÊ HƯƠNG
Phương Tuấn
Tháng 7 lại về, Florida đã vào mùa mưa, bắt đầu mùa bão dài đến tháng 11. Những cơn mưa dữ dội, nước chảy như thác xuống các hồ xung quanh.
Mưa làm nhớ cơn mưa ngày 28/4/1975, 50 năm trước, ngày Tổng thống Trần văn Hương giao quyền cho ông Dương văn Minh, bắt đầu những ngày đau buồn của quân dân Miền Nam
Mới đó mà 50 năm, dài như gần cả đời người.
Đó là những ngày ta đi “Không thấy phố, không thấy nhà”, chỉ thấy toàn cờ đỏ và các biểu ngữ màu đỏ với những khẩu hiệu xa lạ như:
“Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa”.
50 năm tưởng đã quên, nhưng mưa lại về, gợi nhớ, buồn thương.
Võ Văn Kiệt có nói”
“Có triệu người vui, nhưng cũng có triệu người buồn”
Xin sửa lại, :”Có nhiều triệu người buồn.”
Ôi dân tộc tôi tự hào với 4000 năm văn hiến, nhưng không học được bài học của Đông và Tây Đức.
Họ không có Trường Sơn để đốt cháy, hay xẻ dọc Trường Sơn mà đi, để Xuân Vũ viết lên những kiệt tác:
”Xương trắng Trường Sơn”,
“Mạng người lá rụng”,
“Đường đi không đến”…
Họ chỉ nhẹ nhàng phá bỏ bức tường ô nhục Berlin, và anh em cả Đông và Tây ôm nhau mừng rỡ trong nước mắt, vì dù Đông hay Tây, họ cũng chỉ là dân tộc Đức, một nhà.
Hung dữ như Triều Tiên, cũng không xua quân xuống miền Nam xâm chiếm Hàn Quốc.
Xin nói về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn kẻ yêu, người ghét, riêng tôi câu hát của Trịnh Công Sơn quá đúng:
”Hai mươi năm nội chiến từng ngày”. Đúng hơn là
“Ba mươi năm nội chiến từng ngày”, nếu chúng ta tính từ 1945 đến 1975. Lẽ dĩ nhiên hai bên đều dùng súng đạn của ngoại bang để chém giết anh em mình, nhưng phải nhận cho rõ, anh em Miền Nam đứng vào thế thủ, tự vệ.
Việt Nam quê hương đau thương của tôi đã có những trang sử vô cùng hào hùng, viết lên bởi hai Bà Trưng, Bà Triệu, bởi Lý Thường Kiệt, bởi Ngô Quyền giết giặc trên sông Bạch Đằng, bởi Hưng Đạo Vương ba lần thắng quân Nguyên Mông, bởi Lê Lợi. 10 năm kháng chiến đuổi giặc Minh, chặt đầu tướng giặc Liễu Thăng tại ải Chi Lăng, bởi Quang Trung chiến thắng quân Tàu, tiến vào thủ đô Thăng Long ăn Tết ngày mùng năm, năm Kỷ Dậu 1789.
Nhưng buồn thay, cũng Việt Nam quê hương tôi có hai lần anh em chém giết lẫn nhau, Nam Bắc phân tranh thời Trịnh Nguyễn, và gần đây Nam Bắc trong cuộc nội chiến. Một người lính chết dù bên này hay bên kia cũng là con của Mẹ Việt Nam.
“Khi viên đạn xuyên vào một người lính, dù thuộc bên nào đi nữa, thực ra nó xuyên vào trái tim của một người mẹ”. Abraham Lincoln.
Những người mẹ Bắc hay Nam đưa tiễn con mình vào nơi gió cát binh đao. Người đi chinh chiến từ ngàn xưa cho đến nay, biết có mấy người về. Mẹ ở nhà đêm ngày cầu nguyện Trời Phật, Ơn Trên, Thượng đế, hay Thiên Chúa, cho con mình về bình an. Có những người con đi biền biệt, mất tích, mẹ không biết nay con ở đâu, sống hay chết. Có những người về thân tàn ma dại, có người về gói trong poncho…
Những dòng này được viết trong Ngày Của Mẹ.
Những ngày tù đày bắt đầu, tiếp nối những cuộc vượt biên, vượt biển.
Để đánh dấu 50 năm kỷ niệm ngày 30/4/1975, một đoàn hành hương trên 100 người, đa số những người trên 60 mươi tuổi trở lại thăm những nơi họ từng dừng chân sau những ngày vượt biển, đó là các trại tỵ nạn Bidong, ở Malaysia, Galang, ở Indonesia, và Palawan, ở Philippines. Tại Bidon, họ đã nhớ lại có những ngày nhiều xác người chết trên biển dạt vào tận bờ. Không ai biết chính xác bao nhiêu người bỏ thây trên biển Thái Bình.
Trại tỵ nạn Galang, được thành lập một thời gian khá lâu sau khi người tỵ nạn đến Indonesia vào những năm 1978, 1979, 1980. Đầu tiên là những người đến đến các đảo hoang như Berhala, Tarempa, Araya, sau đó tụ hội về đảo lớn Kuku, nơi đây có khoảng 20,000 người tỵ nạn. Trẻ em chết vô số qua đêm vì sốt.
Tại Kuku, sau đó tàu “Ile de Lumière” của Pháp đến. Ban đêm tàu thắp sáng một vùng biển, đúng là “Đảo ánh sáng”, đem lại niềm vui và hy vọng cho những người vô tổ quốc.
Dạo đó cũng có tàu “World Vision” đến giúp dân tỵ nạn. Từ Kuku dân tỵ nạn được đưa về Galang.
Phái đoàn thăm Galang kể lại những chuyện thật thương tâm trên đảo. Có ba cô gái bị tàu hải tặc hãm hiếp trên đường vượt biển, suy sụp tinh thần, các cô tự tử, miếu thờ ba cô vẫn còn trên đồi dưới một cây cổ thụ. Con đường trước mặt được gọi là “con đường máu”.
Vào khoảng 1988, 1989, Liên Hiệp Quốc chấm dứt chương trình chấp nhận dân boat people. Những người tỵ nạn tại đảo rớt thanh lọc không có nước nào nhận bị ép buộc hồi hương. Nhiều người chấp nhận cái chết, không về, họ treo cổ, mổ bụng, hay tự thiêu tại con đường này. Ôi thảm thương những người trả giá cho tự do, cái giá quá đắt, trả bằng mạng sống mình cũng không được.
Trên 4000 năm dựng nước giữ nước, chưa bao giờ con dân Việt bỏ nước ra đi, và chịu những thảm cảnh như vậy vào cuối thập niên 1980.
Cuộc thống nhất Việt Nam đã được thực hiện từ sau ngày 30/4/1975, nhưng thống nhất về địa lý. Lòng người vẫn chưa thống nhất.
Sau cuộc chiến Việt Trung năm 1979, nhiều nghĩa trang của tử sĩ Trung Quốc được xây cất tử tế trên đất Việt Nam. Đây là một nghĩa cử tốt đẹp của người Việt. Chúng ta thường nói :”Nghĩa tử là nghĩa tận”, chẳng còn oán thù gì khi họ đã chết.
Nhìn những hình ảnh nghĩa trang đẹp đẻ, khang trang, của những lính trận Trung Quốc chết trên quê hương, lại chạnh lòng nhớ đến nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hòa tại Biên Hoà, không người chăm sóc suốt 50 năm, khói hương tàn lạnh.
Bức tượng “Thương Tiếc” đã bị giật sập từ lâu, và nay ai đem đi đâu mất. Vì đâu nên nông nỗi. Sao anh em chúng ta cùng con một Mẹ Việt Nam không học được bài học cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ, cách họ đã đối xử với nhau như thế nào, khi tử sĩ hai bên cùng nằm chung trong nghĩa trang quốc gia Arlington National Cemetery.
Ngày hôm nay ngồi viết lại những dòng này, lòng không còn hận thù bất cứ ai, chỉ tiếc nuối và thương cảm cho quê hương mình, qua một thời chinh chiến khốc liệt đau thương. Những hệ quả vẫn còn đó, vết thương 50 năm rồi vẫn chưa lành. Có những gia đình thất lạc qua chiến tranh trên đường vượt biên, vượt biển, chưa tìm lại được người thân. Tội nhất là những cô gái bị hải tặc Thái Lan bắt đi, nay lưu lạc phương trời nào, sống chết, ai biết, ai hay?
Khi tôi đang viết đây, ngoài trời đang mưa. Mưa đem tốt tươi cho ruộng đồng, nhưng mưa bao giờ cũng buồn, gợi nhớ quê hương đã xa, quả thật nghìn trùng xa cách.
Tối hôm qua nói chuyện qua điện thoại với một người bạn ngày xưa học trung học cùng anh tại College Francais de Tourane bao nhiêu năm trước, anh hỏi:
“Tùng ơi, bao giờ thì cậu về thăm Huế quê mình?”
“Bính ơi, mong lắm, biết bao giờ về được. Mỗi ngày, thêm một ngày, quê hương càng xa một bước, tuổi đời chồng chất, sức khoẻ cạn kiệt, và ngày về tít mù xa. Tuy Huế không phải là nơi mình sinh ra, nhưng thương và nhớ Huế chi lạ, nhất là Huế xưa của mình, với hình ảnh những tà áo trắng bay bay của các nữ sinh Đồng Khánh đạp xe đi và về qua cầu Trường Tiền những năm tháng trước ngày 30/4/1975. Ôi những cánh bướm xưa của Huế nay ở đâu, phiêu bạt chân trời nào?
Và Bính cũng hỏi mình về Đà Nẵng, quê hương mến yêu. Tình cờ cách đây ít hôm xem được video về Đà Nẵng xưa 1954-1975. Nhớ ơi là nhớ, vẫn ngọn núi Tiên Sa, như một cánh tay của Trường Sơn Đông sải ra ngoài biển Đông. Ngọn núi quê hương này luôn có mây mù trên đỉnh những tháng ngày mùa đông. Dòng sông Hàn êm đềm chảy ngang qua thành phố như một giải lụa xanh thắt ngang lưng người con gái, một thành phố đẹp nhất Việt Nam với núi, với biển, và con sông dài cũng bắt nguồn đâu đó từ dải núi Trường Sơn.
Những con đường nhỏ thân quen của những ngày tuổi thơ lại hiện về, từ con đường Bạch Đằng chạy dọc sông Hàn, nơi có căn phố lầu nơi tôi sinh ta, sống những ngày đầu đời, đến đường Độc Lập, ngày xưa là Jules Ferry, đưa tôi đến trường Trung học Pháp, College Francais de Tourane, hậu thân của Lycée Francais de Huế, và sau này là Lycée Blaise Pascal, đến con đường Phan Chu Trinh, ngang nhà ba mẹ. Biết bao nhiêu là kỷ niệm.
Và đây con đường Phan Thanh Giản, số 13 là nhà của cô gái mối tình đầu đời của tôi. Ít năm sau gia đình nàng dời về làng Thạc Gián, một căn nhà nhỏ xinh xinh có vườn hoa cũng nhỏ thôi. Nhà có căn gác nhìn xuống sân với mấy cụm hoa hồng, hoa cúc, thược dược…
Ba mẹ cô sinh năm người con gái, không có trai, nên tôi thường gọi đùa là “Ngủ long công chúa’. Nàng tiên đầu đời đó đẹp, mặt hiền như mặt Đức Mẹ. Hai năm học trung học cùng nàng, chỉ thấy nàng mặc áo dài màu thiên thanh.
Ai tuổi thanh niên mới lớn không mộng mơ, ai tuổi thiếu nữ một lần không biết yêu. Nhớ hai câu thơ của Nguyên Sa:
“Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc,
Áo nàng xanh, anh mến lá sân trường”
Vào một buổi chiều cuối hè sau kỳ thi tú tài, nàng đạp xe đến nhà thăm tôi, cũng vẫn với tà áo xanh huyền diệu đó. Làm sao quên được. Dù là vợ hay chồng, tôi nghĩ trong chúng ta ai cũng có mối tình đầu dấu kín trong lòng, sợ nói ra sẽ bị dị nghị. Tôi thì không, nghĩ chẳng bao giờ người vợ hiền trách móc tôi. Đây là kỷ niệm đầu đời, để lại trong mỗi chúng ta những hình ảnh thật dễ thương của những ngày mới lớn, mới biết yêu, biết nhớ, và biết thương. Ôi, mối tình trong như ngọc, trắng như ngà, thời niên thiếu, không dính bén một chút bụi trần.
Ngày đó bà chị tôi, hơn tôi hai tuổi, bảo:
“Sao em không đưa bạn gái của em vào phòng khách nói chuyện lại mời cô ta vào phòng của em?”
“Đó là phòng học của em mà, đâu có gì quan trọng. Chúng em trong trắng lắm mà”.
Ngồi đó với nàng, cách nhau chỉ trong gang tấc, tưởng chừng chỉ với tay ra có thể ôm trọn được người tôi thương vào trong vòng tay. Chẳng cần phải nói tôi thương em. Những mối tình đầu của thuở học trò đó có ai nói hai chữ thương yêu đâu. Họ hiểu nhau bằng ánh mắt, bằng cử chỉ. Chuyện một bạn gái đơn thân đến nhà thăm bạn trai cũng đủ nói lên lòng của nàng.
Người ta nói những mối tình học trò như những cơn mưa giông, rầm rộ, chợt đến rồi chợt đi. Có thể đúng, rất ít ai ôm được “My High school sweetheart” của mình để đi trọn cuộc đời, nhưng kỷ niệm những ngày biết yêu đầu đời đó sống mãi với họ.
Cách đây bốn năm tôi được tin nàng, qua một người bạn, nàng đã “ra đi”, để lại trong tôi ngậm ngùi, thương tiếc.
Phải, sớm hay muộn ai cũng phải rời bỏ chốn trần gian đầy đau thương khổ ải này để ra đi. Có chăng, ở để thương, đi để nhớ cho những bạn bè còn ở lại. Nàng vẫn mãi là nàng tiên áo màu thiên thanh đầu đời niên thiếu, năm cuối trung học của tôi. Một nàng tiên đừng đụng đến, vì sợ đụng đến nàng sẽ cất cánh bay xa. Có phải người đời thường hay ví von:
“Tình chỉ đẹp khi còn dang dở,
Đời chỉ vui khi chưa trọn câu thề?”
Nhớ Huế và Hàn quê hương tôi, lại nhớ những cơn mưa tháng năm Saigon, nơi tôi đã để lại một phần đời với quá nhiều kỷ niệm.
“Tôi đã đi, tôi vẫn đi mãi, biết bao giờ trở lại.
Saigon ơi, sao em còn mãi trong tim tôi.
Ôi những con đường ngày nào còn nghe lá rơi,
Nụ cười còn tươi nét môi, hay áo màu phai úa rồi.
Tôi đã đi, tôi vẫn đi mãi, biết bao giờ trở lại.
Hỏi lòng nhau cơn mưa nào xoá đi thương đau.
Bao tháng năm dài miệt mài, đời như khói sương,
Nghìn trùng dòng sông vấn vương, để nhớ thương mắt lệ buồn”
(Biết bao giờ trở lại, Ngô Thuỵ Miên)
Saigon có những con đường lá me bay. Đó là đường Trần Quý Cáp, ngày xưa có tên Testard, số 28 là Đại Học Y Dược Khoa cũ. Một con đường khác lá me bay là Duy Tân với hồ Con Rùa, hay con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, trước Vườn Bách Thảo, với bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy.
“Con đường tình ta đi”:
“Hỡi người tình học trò, hỡi người tình năm xưa,
Bóng người từng in dấu trên đường mờ.
Có thuộc vạn nẻo đường, có ngại ngùng nên quên.
Nhớ hoài con đường cũ không tên…”
Nhưng với tôi, con đường lá me bay vẫn là con đường Cường Để, con đường đầy bóng mát. Đây là con đường có bước chân tôi và người con gái sau này là người bạn đồng hành cùng tôi lên đèo, xuống dốc, chia xẻ buồn vui. Đã từ rất lâu, 60 năm rồi chúng tôi không còn trở lại con đường xưa để cùng cầm tay nhau, đếm bước, để lá me bay rơi rụng trên tóc xoả ngang vai người con gái Huế, trên chiếc áo dài trắng của nàng, hay bờ vai tôi.
Saigon ơi, ta có quá nhiều kỷ niệm với Saigon, kể sao cho xiết. Saigon có lẽ là thành phố ta sống nhiều nhất trên quê hương Việt Nam.
Ngày vượt biên ra đi, Saigon không níu giữ được chân ta vì ta khao khát hai chữ “Tự do”. Khi ngay chính con đường “Tự Do” cũng mất tên với tên mới “Đồng Khởi”. Đồng Khởi cho ai, vì lý do gì ta đâu có biết.
Saigon ơi, tháng 7 nay lại về, và Saigon có những cơn mưa dữ dội, nước chảy thành sông. Nhớ lắm, nhưng biết làm sao. 50 năm rồi cả một đời người, thời gian như một dòng sông, nước cứ chảy, cứ chảy, chẳng chờ, chẳng đợi ai. Và dù ta có về thăm lại Saigon, có ai chờ, ai đợi ta bên dòng đời đó. Bao nhiêu người ta thương đã lẳng lặng bỏ ta đi không lời giã từ. Ta có về cũng thành người xa lạ, giữa dòng người tất bật ngược xuôi. Ôi Saigon, biết bao nhiêu là nhớ, là thương, ngậm ngùi…
Làm sao ta có thể viết về Saigon mến yêu qua một trang giấy? Saigon đối với ta dù qua bao nhiêu năm tháng vẫn mãi tên Saigon, không một tên nào khác, dù thế giới có đổi thay.
Cơn mưa nào đến rồi cũng sẽ đi, nắng lại lên. Chúng ta không thể khóc mãi vì những đổ vỡ của những ngày tháng cũ. Dân tộc Do Thái đã hết khóc bên dòng sông Babylon, họ đã về lập quốc sau 2000 năm lưu vong.
Thế hệ chúng ta già cỗi sẽ qua đi, nhưng hy vọng những đàn con cháu một ngày nào đó, xa hay gần sẽ trở về xây dựng lại một quê hương Việt Nam ấm no, tự do, hùng cường. Và một phiên bản cờ vàng sẽ bay cao trên kỳ đài Thủ Ngữ hay Phú Vân Lâu.
Làm người ai cũng có hy vọng. Đừng để hy vọng tắt lịm, vì hy vọng tắt chúng ta thành những con người tuy còn sống nhưng đã chết. Nguyễn Bá Học ngày xưa có viết:
“Làm người ai cũng có hy vọng, như người làm ruộng mong cho đến ngày gặt lúa, kẻ đi đường mong cho đến chỗ nghỉ chân…”
Không ai cấm chúng ta hy vọng một ngày mai huy hoàng sẽ đến với dân tộc Việt Nam.
Phương Tuấn
Comments
Post a Comment