August 11, 2025. Câu chuyện TRƯƠNG-CHI trong văn-học Pháp-thoại. Nguyễn Lê Hiếu.

                                        Câu chuyện TRƯƠNG-CHI

trong văn-học Pháp-thoại



Sự tự-do trong sáng-tạo và thưởng-ngoạn.


Nguyễn-Lê-Hiếu


Văn-học khởi đầu từ giai-đoạn truyền-khẩu rồi mới sang bộ-phận thành văn. Trong


giai-đoạn truyền-khẩu, người xưa ưa dùng thể thơ-ca có vần điệu và điệp-khúc nhái-đi-

nhái-lại cho dễ nhớ. Ca-dao tục-ngữ thường ngắn gọn, truyền lại các bài học, túi khôn từ


đời xưa. Cổ-tích tương-đối dài hơn, dùng ngôn-từ kể-lể-trình-bầy sự việc, nhắc chuyện

xưa, cũng là để ghi-khắc trên ký-ức con cháu, một số hình-ảnh đặc-biệt cần trân-quý

lưu-giữ tạo nên ký-ức bầy-nhóm. Cổ-tích có nhiều loại, nói về nguồn-gốc thần-thoại loài

người, hay cội-nguồn bộ-tộc trong huyền-sử dã-sử, hay tìm cách diễn-giải hiện-tượng

thiên-nhiên huyền-bí; nhưng gần-gũi tha-thiết hơn vẫn là tả tâm-tình tự-nhiên của con

người. Cổ-tích thường tạo trên nền-tảng đời sống quen-thuộc thường ngày khiến người


nghe dễ-dàng nhận ra mình trong câu chuyện; nhưng lại cũng chứa những yếu-tố thần-

kỳ hấp-dẫn gây ngạc-nhiên thích-thú cho người nghe. Xét một cổ-tích nên tìm-hiểu gốc


loại của nó, nhận-định hoàn-cảnh xã-hội vào thời-điểm, nhận-diện thực-tế và phân-giải

nét thần-thoại diệu-kỳ.

Tạm lấy câu chuyện Trương-Chi làm thí-dụ. Tưởng-tượng một buổi xế chiều, trên

sân sau căn nhà trong xóm an-bình, cạnh khuôn cửa-sổ, có móc một cái võng đong-đưa;

một phụ-nữ nằm thoải-mái, ôm-ấp bé nhỏ nắm xấp trên bụng. Mẹ—mà cũng có thể là

bà hay dì—nhẹ-nhàng cất giọng:


1- Ngày xưa có anh Trương Chi,

Người thì thậm xấu, hát thì thậm hay.

3- Mỵ-nương ở chốn lầu tây,

Con quan Ngự-sử ngày rày cấm cung.

5- Trương Chi vốn ở ven sông,

Chèo thuyền ngang dọc đêm đông dãi dầu.

7- Canh khua, chàng hát một câu,

Gió đưa thoang-thoảng tới lầu Mỵ-Nương.

9- Mỵ-Nương nghe hát thì thương,

Hầu trông thấy mặt anh chường lại chê.

11- Trương Chi buồn bã ra về,

Cắm sào giữa bến hát thề một câu:

13- Kiếp này đã dở dang nhau,

Thì xin kiếp khác duyên sau lại lành...

Có dị-bản đau-thương mang nặng nỗi bi-quan tuyệt-vọng

Có sang kiếp khác lấy nhau (cũng) không thành. (1)


2


Đời sau, có người lẩy Kiều mà ghép thêm

15- Nợ tình chưa trả cho ai,

Khối tình mang xuống tuyền-đài không tan. (2)

Lại cũng có thêm đoạn-kết, ngọc quý đẽo thành ly; để rồi khi My-nương rót nước vào

thì thấy hình Trương-Chi chèo thuyền hiện ra; cô nhớ chuyện-cũ, nhỏ giọt lệ


Không cầm đến chén thì thôi,

Hễ cầm đến lại thấy người hò khoan.

Mỵ-nương đau đớn can tràng,

Hạt châu rơi xuống, vỡ tan thuyền tình. (3)

Sáu câu đầu giới-thiệu hai nhân-vật với chút thông-tin ít-ỏi nhưng quan-trọng: thứ

nhất: tài hát thậm hay nhưng hình-hài thậm xấu, mâu-thuẫn oan-nghiệp giữa thính và

thị-giác, tài cao nhưng ngoại-hình kém; thứ hai: nếp sống khác-biệt đối-kháng: bên

phóng-khoáng trên sông, bên kín-cổng-cao-tường. (4)

Khung-cảnh và sự-việc nào đã khiến hai nhân-vật thuộc hai đẳng-cấp và hai dòng

sinh-hoạt xa-cách bỗng cùng gặp nhau và tương-tác? Đó là giọng ca tuyệt-vời của anh

chài, bay-bổng qua không-gian lọt vào lầu cao Mỵ-nương. Mấy câu bảy đến mười trình

bày nút rối của câu chuyện là Mỵ-nương thương giọng hát mà chê con người. Cổ-tích này

mô-tả tình người trong cảnh éo-le của anh chàng yêu không phải chỗ! Đây là một chuyện

tình quen-thuộc ta dễ gặp trong đời sống hàng ngày, trong xã-hội.

Câu mười-một tới mười-bốn là đoạn kết với kỳ-vọng ở kiếp sau—hay theo dị-bản,

đau-thương chua-sót, Có sang kiếp khác lấy nhau (cũng) không thành.

Nhưng ngay đó, cũng có những yếu-tố thần-kỳ hấp-dẫn quen-thuộc trong cổ-tích:

ở đoạn kết: Mối tình tuyệt-vọng làm chai-đá thân-hình anh chài biến thành viên ngọc.

Rồi giọt lệ xóa-bỏ nỗi hắt-hủi trước, và giải-gỡ nỗi hận-tình.


o0o


Khoảng từ giữa thế-kỷ trước cho tới khoảng 1940-45, có phong-trào Phục-hưng


Phục-sinh, tìm về nguồn-cội, tự vấn mình về bản-sắc ta và dấn thân đấu-tranh cho đất-

nước nhà, có một số tác-giả đã giới-thiệu văn-hóa ta với chuyện Trương-Chi phổ-biến


qua tiếng Pháp. (5)


oOo


Phạm-Duy-Khiêm, bị lôi kéo giữa gốc-cội Việt và văn-minh thế-giới gốc Hy-La, cho

xuất-bản cuốn Cổ-tích thần-thoại miền đất an-bình (1951) mở đầu với câu chuyện

Trương-Chi, đặt nhan-đề Khối ngọc tình. (6) Chuyện khởi đầu,


Ngày xửa ngày xưa, một vị quan nọ có ngươi con gái xinh đẹp vô-

cùng...sống biệt-lập trong khuê-phòng trên một lầu cao...Cô thấy xa xa có một cái


thuyền chài nhỏ, một anh chài...thường ca hát trên sông. (Tiểu-thư mê-say) giọng


hát tuyệt-vời và điệu nhạc buồn...Bỗng mấy ngày anh chài thôi hát, thế là tiểu-

thư se mình đau ốm...lương-y bó tay không chữa-trị được cho đến một ngày kia,


3

anh chài cất giọng lên ca-hát lại thì tiểu-thư bỗng bớt đau. Hầu-nữ báo sự-việc lên

quan; quan cho đòi anh chài vào dinh hát. Nhưng khi thấy mặt anh chài, chuyện

lạ xảy ra: tiểu-thư hết còn cảm-tình với giọng hát và không muốn nhìn mặt anh

chàng xấu-xí.


Còn phía anh chài thì ngược lại, sau khi gặp tiểu-thư, anh bị sắc đẹp tuyệt-

vời mê-hoặc nên mắc bệnh “tương-tư” rồi chết thảm. Về sau, khi cải-táng, thấy


trong quan-tài có một tảng-đá trong-sáng. Gia-đình đặt trên mũi thuyền. Vị quan

mua viên ngọc, cho đẽo thành ly cho tiểu-thư. Khi rót nước vào, tiểu-thư thấy hình

anh chài hiện lên; nhớ chuyện cũ, tiểu-thư giỏ lệ, giọt lệ làm ly ngọc tan.

Phạm-Duy-Khiêm dẫn hai câu thơ trong một đại-tác-phẩm Kim-Vân-Kiều, tóm-tắt

nút rối:


Nợ tình chưa giả cho ai,

Khối tình mang xuống tuyền-đài chưa tan.

Phạm-Duy-Khiêm suy-diễn sơ-khởi là cô gái “có nợ với anh chài” vì đã phụ tình

khiến anh chàng chết, sau giọt lệ đã giải-tỏa nỗi sầu của ảnh, đã trả hết nỗi nợ tình.


oOo


Lê-Thành-Khôi, sau khi viết cuốn Việt-Nam: Lịch-sử và Văn-minh (1958) cũng giới-

thiệu một số cổ-tích mà tiêu-biểu là cuốn Le Pierre d’Amour, (1959) mang tên của câu


chuyện cuối về Trương-Chi. Cổ-tích cũng mở đầu và kết-thúc tương-tự như Phạm-Duy-

Khiêm kể, (7)


Xưa có cô con gái duy-nhất của một vị quan lớn sống trên một lầu cao bên

ven sông...Một chiều, có tiếng hát từ sông vang lên...có anh chài đứng đầu thuyền

trong những tia-sáng của mặt trời về chiều...

Rồi cũng si-mê tiếng hát, cũng cảnh tình vật ốm-đau; anh chài được gọi đến để

chữa bệnh—và rồi thấy chính mình lại thấm bệnh tương-tư và rồi mất mạng. Họ chạm

mặt mà không cảm-thông với nhau


Hai người đã sáp lại gần nhau một khoảng-khắc, giữa không-gian mênh-

mông và trong khoảng thời gian vô-tận. Cái (duyên)-nợ vẫn còn đó, dai-dẳng; có


thể là sau cuộc đời tạm-bợ này, sẽ còn một cuộc gặp-gỡ khác trong tương lai?

Cái nợ-tình chưa được hoàn-tất nay kết-tinh để chờ ngày giải-thoát.


o0o


Trong cả hai văn-bản, mới nghe tưởng đơn-giản như là chuyện tình bế-tắc của đôi

trai gái; hai nhân-vật là nạn-nhân của một cuộc tình lỡ. Thực ra, hai tác-giả diễn-giảng


nút rối là họ có duyên-nợ phải ở với nhau; một bên lỗi hẹn, bên kia mang mối tình lỡ-

làng đã kết-tinh, chờ ngày được giải-thoát; theo Lê-Thành-Khôi, đó là một chuyện tình


buồn, ly-cách, mong rằng có thể tái-hợp ở một kiếp sau. Phạm-Duy-Khiêm đào sâu thêm

và viết,


Cho người nước nam an-bình, cổ-tích này mang ý-nghĩa sâu-sắc hơn. Theo


họ, mọi mối tình đều được tiền-định, mọi kết-hợp đều là hậu-quả bó-buộc-sẽ-phải-

đến của món nợ từ nhiều nhiều kiếp trước; một cặp chu-toàn việc kết-hợp với


nhau là để thể-hiện một nhiệm-vụ (xum-họp) chung...


4

Tiểu-thư phải gặp anh chài bất kể mọi ngăn-cách, từ nếp sống đến giai-cấp xã-hội;


khi cô mê-mẩn tiếng hát và khi anh chài mơ-tưởng đến tiểu-thư, chính là lúc hai con-

đường-định-mệnh đang mò-mẫm tìm đến nhau. Việc kết-hợp không thành nên nợ tình


còn đó. Thần-kỳ là giọt lệ tình-cảm, tuy chậm-trễ, đã giải-thoát món nợ ngay từ trong

kiếp này, chẳng đợi đến kiếp sau.


o0o


Trong thập-niên trước, 1945-1955, nước ta tái xuất-hiện như một quốc-gia trưởng-

thành, đang phấn-đấu để cởi gỡ ách ngoại-trị: hai lần tuyên-ngôn độc-lập, vài hội-nghị


cỡ quốc-tế ở Đà-lạt, Fontainebleau, Élysée và Geneva, chiến-tranh đòi độc-lập dẫn đến

cảnh phân-chia Nam-Bắc nhưng cả hai miền đều xưng độc-lập. Lúc đó, người chiến-sỹ

phục-quốc nay trở thành người chiến-sỹ văn-hóa: đó là thời-điểm “mang chuông đi đánh

xứ người” và ta đã trưng-bày Viên ngọc tình-ái Trương-Chi như ở trên. (8)


Hai thập-niên trước đó, 1925-1945, trước phong-trào canh-tân đất-nước, Nguyễn-

Mạnh-Tường (9) viết về đường-hướng xây-dựng xã-hội mới, cổ-võ xu-hướng phục-hưng


nhân-văn, con người Việt-Nam mới phải đứng lên, trong tinh-thần nhân-bản, nhận nhiệm-

vụ lấy quyết-định cho mình, thực-hiện điều mình chọn lựa. Ông cũng đã chọn Trương-

Chi để đề-cao vai trò con người nhân-bản trong hoàn-cảnh lúc đó của đất-nước.


Người trí-thức, theo ông, không thể thụ-động ngồi chùm chăn mà chấp-nhận cái

gọi là định-mệnh kiểu con-quay-búng-sẵn-trên-trời hay lò-cừ nung-nấu sự đời...Ông giễu

anh chài và tiểu-thư, biến họ thành hai con múa-rối mà mọi cử-động đều bị giật dây; họ

nín thinh, không nói mà chỉ làm. Tác-giả thành người diễn-giải, biết rõ những trắc-trở ở

đời nên khuyên cô gái đi vào khuê-phòng đừng đứng nghe tiếng hát, bảo cô gái đừng

bắt tìm anh chài,


Cô gái ơi, chiều hôm xuống rồi. Sao hãy còn thơ-thẩn dưới mái hiên thường

che-chở cho cô khỏi nám má hồng. Đã đến lúc cô trở bước quay về khuê-phòng


tiếp-nối cuộc đời tối-tăm kín-đáo chỉ le-lói với những tia sáng công-dung-ngôn-

hạnh; và đó chính là cuộc sống cố-hữu của người phụ-nữ xứ ta...


Thôi đi, cô gái hỡi! Về khuê-phòng đi thôi. Mơ-mộng một mình, lúc chiều tà,

trong bóng tối là điều rất nguy-hiểm! Cô đòi-hỏi mơ-mộng một cuộc đời quá xa

rời thực-tế. Những mơ-ước trong thâm-tâm của người tuổi-mười-tám cho thấy rõ

là tuổi trẻ không biết nhân-nhượng. Chớ có xây-dựng hạnh-phúc cả đời trên một

cảm-thú giây-phút...

Ông lại can anh chài đừng tiến về nhà vị quan, cảnh-cáo anh chài không nên vào

gặp cô gái, khuyên xin cô gái đừng hắt-hủi anh chài,


Anh chài ơi, chậm chân lại, đừng vội-vã trên nẻo đường đưa anh tới sắc đẹp.

Sắc đẹp là món quà tuyệt-vời và kinh-khủng mà Trời xanh trao cho để chúng ta

được nếm niềm vui-sướng cùng chịu nổi khổ-thương. Sắc đẹp theo cánh gió bay,


5

chỉ dừng nơi vài người được hưởng đặc-ân, trong khoảng thời-gian ngắn-ngủi một

đời hoa...

Cái nghiệp bí-ẩn của đam-mê đang chờ anh. Đừng tiến bước nữa anh chài

ơi...Hỡi ơi, bản-năng thúc-đẩy anh, anh sẽ chẵng thoát được số-mệnh, và đấy, giờ

đây anh đã đứng trước sắc-đẹp!

Cô gái ơi, sao cô lại nhắm mắt lại, sao cô lại để tay lên ngực, sao cô lại

ngoảnh mặt không đoái nhìn kẻ mà cô đã lôi ra khỏi vũng an-bình của hắn? Vậy

đó, hắn chỉ là anh chài tội-nghiệp đáng thương đang chiêm-ngưỡng cô. Hắn vốn

là người Trời ban cho món quà xấu-xí. Hắn không có cái nét bóng-bẩy của tuối

trẻ, cũng chẳng có cái dáng thanh-nhàn của kẻ phong-lưu...

Ông an-ủi anh chài nên quên hình-ảnh cô gái...toàn những khuyên can khôn ngoan.

Thôi, về đi, anh chài. Anh chẳng thấy là người ta phất tay xua đuổi sao?

Thôi về đi, anh chài, trở về mái nhà đi. Vợ con đang lo-lắng trông-chờ vì anh

về trễ...Cái khoảng-khắc ngắn ngủi níu-kéo giữa sự sống với cái chết nó quý-giá

biết ngần nào. (10)

Toàn những lời khuyên can khôn-ngoan, nhưng hai con rối rắn-đầu không chịu


nghe theo mà cứ làm theo ý mình—nghĩa là ngược lại. Thoạt trông tưởng họ là hai con-

rối mà mỗi-mỗi hành-động đều do bị giật-dây, nhưng không, con rối có ý riêng, quyết-

định riêng, hành-xử theo ý riêng của chúng. Lời khuyên về nhân-bản của Nguyễn-Mạnh-

Tường là Học cho kỹ, nghĩ cho sâu, giữ ý-chí, nhận trách-nhiệm, làm lớp người mới đóng


góp cho việc đổi mới trên đường xây-dựng phương đông.

O0o


Trần-Huy-Minh (11) là một nữ văn-sỹ Pháp gốc Việt—hay là người Việt sinh và định-cư tại

Pháp—gần-gũi chúng ta hơn; sinh sau cuộc chiến 55-75, gia-đình sung-túc tại Pháp; được

cha mẹ và nhất là bà nuôi-nấng và che-chở từ nhỏ ở thành-phố, cô không biết mấy về

“quê nhà Việt-nam”; vô-tình cô gặp một thanh-niên tên Nam—không phải là anh chài

chèo thuyền mà là một tỵ-nạn đi-thuyền! Chuyện của nàng và chàng thuyền-nhân khởi


đầu hồn-nhiên: gặp nhau trên một chuyến du-lịch học hè bên Anh-quốc, anh chàng săn-

sóc và che-chở cô bạn mới bé-nhỏ như một ông anh lo cho người em—cô nghĩ anh ta đã


trở nên thần hộ-mệnh ange gardien, suốt ngày bên cô, không rời bước. Sau cuộc du-học


hè, trở về Pháp, họ gặp nhau nhiều hơn. Cô kể lại chuyện hai người, ngày càng thân-

thiết qua bảy chương sách; sau đó, anh bạn bỗng bỏ ra đi, để lại một cuốn sổ nhỏ bìa


đen và mẩu tin ngắn: “Tôi nghĩ chúng mình không nên liên-lạc với nhau nữa; ban là

người tốt mà tôi khì khác...” Cuốn sổ nhỏ ghi vài chuyện cổ-tích, kỷ-vật của người em gái

còn ở lại ở Việt-Nam, nay Nam để lại cho cô bạn nhỏ.


6

Đây là một chuyện lồng mà nhân-vật nữ cành-vàng-lá-ngọc gặp nhân-vật nam

thuyền-nhân; trái-ngược với tích Trương-Chi cổ-truyền trong đó Mỵ-nương chê anh chài,

kết-cục ở đây là “anh chài bỏ công-chúa”. Mở đầu mỗi chương, tác-giả ghi một đoạn

ngắn-ngủi không liên-hệ tới chuyện trong chương; nhưng sau khi đọc-đi-đọc-lại, mới thấy

đó là cổ-tích thứ hai, Thiếu-phụ Nam-xương, chuyện một người anh muốn tránh việc

loạn-luân nên bỏ em ra đi. Dần-dần, nút rối gỡ ra: Nam thành thuyền-nhân để tránh cảnh


loạn-luân anh-em ruột—huyết-thống—nay lại bỏ đi để tránh cảnh loạn-luân trong tư-

tưởng với cô bạn gái mà Nam mến và coi như em mình. Trần-Huy-Minh lại kể thêm mối


tình dang-dở của Mẹ với bạn hàng-xóm và liên-hệ đau-thương lỡ-làng giữa Cha và người

em họ...Tác-giả nhận ra chân-lý: Trong đời có những dang-dở chia-ly nó tự-nhiên đến rồi

tự-nhiên đi mà người Nhật gọi là “mono no aware”, cảnh sớm-nở-tối-tàn mà nhà Phật gọi

là “vô-thường”, một nhận thức sâu sắc về sự đi-đến-đến-đi của nhiều sự-việc trong đời;

khiến ta nên học thêm chữ “buông”. (12)

o0o


Bài này viết lại hôm nay dựa theo một thuyết-trình giao-lưu văn-hóa trong thế-giới

Pháp-thoại từ gần hai thập-niên trước. Do đó, bài dựa vào bốn bản Pháp-ngữ. Ngoài việc

giới-thiệu văn-hóa Việt, lúc đó, chúng tôi cũng đưa ra vài nhận-xét:

a- Cùng một câu chuyện cũ, cùng số dữ-kiện nhàm, người cầm-bút có quyền


tự-do sáng-kiến để diễn-giải; cái đặc-biệt nằm ít nhất ở hai điểm: ý-kiến diễn-giải (suy-

luận) và phương-cách trình-bày diễn-giảng (nghệ-thuật). Bốn tác-giả kể trên dàn cảnh


câu chuyện có những lựa-chọn khác nhau.

b- Người cầm-bút có quyền tự-do trong sáng-kiến nhưng cũng chịu ảnh-hưởng


của tiêu-chuẩn nghệ-thuật, trường-phái, mục-đích và hoàn-cảnh đương-thời. Nguyễn-

Mạnh-Tường viết kịch múa rối để minh-họa phương-hướng xây-dựng xã-hội phương


Đông; Lê-Thành-Khôi đề-cao văn-hóa dân ta cho người Pháp dưới lăng-kính cổ-tích về


chuyện tình lãng-mạn éo-le; Phạm-Duy-Khiêm giải-nghĩa tín-ngưỡng phương Đông so-

sánh với tinh-thần phân-tách chi-ly Tây-phương; Trần-Minh-Huy thuộc dòng văn-học thời-

thượng tha-hương (exile) hậu thuộc-địa (post-colonial) đượm chút thiền, khuyên không


nên quá thiết-tha mà ta phải biết buông-thả trước cảnh vô-thường.

c- Tương-tự, người đọc cũng có quyền tự-do thẩm-định, không nhất-thiết phải

đồng-thuận hay chống-đối với người cầm-bút. Không cần—hay không nên—có phản-ứng

mạnh; có thể đóng cuốn sách và nói nhẹ-nhàng: A, tác-giả này—hay người viết kia—

nhìn câu chuyện từ góc-cạnh này hay kiểu nọ! Cách nhìn đa-chiều, cùng hay cả!

Lời kết: Khi viết lại bài cũ sang tiếng ta, chúng tôi cũng nghĩ và thử so-sánh đến

bốn câu chuyện Trương-Chi viết bằng tiếng ta của Vũ-Hoàng-Chương, Nguyễn-Đình-Thi,

Vũ-Khắc-Khoan và Nguyễn-Huy-Thiệp. Cũng đã có người phân-tích riêng-rẻ một hay hai


7

truyện kể trên. Trong một dịp khác, ta có thể so-sánh đào sâu cả bốn văn-bản. Trong

đoạn kết bài viết hôm nay, hãy tạm tóm-tắt ngắn gọn.


Vũ-Hoàng-Chương, được coi là thi-bá trong Làng Thơ Việt, viết kịch thơ Trương-

Chi khoảng 1944; cho Mỵ-nương si-mê tiếng hát mà lãng-mạn tưởng-tượng thành Chàng


áo đẹp phất-phơ, nụ cười phong-nguyệt...Còn tể-tướng đánh giá người nghệ-sỹ theo tiêu-

chuẩn đời thường Nếu như là con nhà...có văn-tài..có học-vấn...có phong-tư đài các thì


ta cho kết lứa đôi... Trong khi Trương-Chi, chỉ có mỗi giọng hát tuyệt-vời còn ngoài ra

hình-hài không có chút gì hấp-dẫn, nên Mỵ-nương xua đuổi rồi than-thở hóa ra Người

bao đêm ta gửi mộng trao tình lại chính là gã bỉ-phu này...Thi-bá họ Vũ cho Trương-Chi

tự-tử; ông soáy vào cái định-mệnh người nghệ-sỹ sở-hữu vẻ đẹp nghệ-thuật (tiếng hát)


còn về các mặt khác thì thua-thiệt với đời và rút cuộc, là kẻ cô-đơn, ái-ngại thấy thân-

phận mình chỉ là một kẻ si-tình áo lá cuồng vọng mê người thâm-khuê lụa gấm son vàng.


Vào khoảng mười năm sau, 1954, Vũ-Khắc-Khoan “kể chuyện” Trương-Chi cho


một thanh-niên cỡ tuổi em mình đang hăm-hở dấn thân vào cuộc sống đấu-tranh chính-

trị hiện-thời; ông chọn một Trương-Chi vốn có sẵn giọng hát quyến-rũ mê-hoặc người,


lại được sư-phụ huấn-luyện thêm để cảm thông được với gỗ-đá; rồi sư-phụ cho xuống

núi, dặn chỉ hát cho người đồng-cảnh, đừng để tiếng hát bị lợi dụng. Trương-Chi say rượu

nhận hát cho nhóm chài địa-phương. Rồi Mỵ-nương đâm ra quyến-luyến anh chàng; bầy

nhóm thuyền chài sợ mất Trương-Chi, bèn phao tin chàng bị phong, cần che mặt để hát.

Trương-Chi che mặt mà hát...Dần dần giọng anh thành khan đặc, và dần-dần chính anh

chàng hóa thân; soi mặt nước thấy mình lột sác thành gồ-ghề thô-kệch. Người kể chuyện

tên là Khoan, khuyên người nghe nên thận-trọng khi lựa-chọn con đường tranh-đấu và

dấn-thân; giữ lý-tưởng chứ đừng theo con đường do bầy-đàn phe-nhóm áp-đặt mà rồi

sẽ thoái-hóa. Truyện Vũ-Khắc-Khoan mang dấu-ấn chính-trị đương-thời.

Bài viết của Nguyễn-Đình-Thi phân-tách tâm-lý hai nhân-vật: Mỵ-nương dằng-co

giữa cái mâu-thuẫn tài ca tuyệt-vời thậm-hay của nghệ-sỹ và cái hình-dáng tiều-tụy thậm

xấu của anh chài; còn Trương-Chi tương-tư mà chết do sự so-le giữa hình-hài thực-thể


người nghệ-sỹ và kỳ-vọng quá cao của đời đối với nghệ-nhân; Nguyễn-Đình-Thi chấm-

dứt với một điểm lạc-quan: tình hai người sẽ còn mãi mãi, cả hai nhân-vật cùng khẳng-

định như vậy.


Nguyễn-Huy-Thiệp vẽ ra một Trương Chi tầm-thường—có phần “hạ-cấp” thô-tục;


trước kia vẫn chịu-đựng lướt qua các ước-lệ để mà sống yên-ổn “giữa bầy”, không suy-

nghĩ nhiều, hát theo lệnh của bầy-nhóm. Nay khi biết yêu tuyệt-đối, chàng nhận-thức


rằng mình đã chưa từng sống thật, đã tự tha-hóa mình từ thuở xa-xưa, đã đánh mất


bản-sắc. Bây giờ chàng phải hát cho chính mình để tìm lại linh-hồn mình, đó là nghệ-

thuật chân-chính—mà cũng là tình khao-khát tuyệt-đối của con người.


Vẫn thấy cái tự-do và thiên-tài sáng-tạo nắm phần quan-trọng hơn là sự-kiện trong

tác-phẩm.


8


Ghi-chú

1- Chúng tôi dẫn một trong nhiều bản dân-gian nghe thấy—và nhớ lại—chứ thực-sự có rất

nhiều dị-bản, vì bài ca truyền-khẩu được nhiều người ghi xuống ở nhiều đia-phương, theo chiều


dài thời-gian, thuộc nhiều thể-loại ca-hát. Người ta hay kể đến các bài thể-loại quan-họ Bắc-

ninh, thường trình-bày tập-thể, hát theo bè, nhiều “liền-anh liền-chị” biểu-diễn, nhạc-điệu du-

dương nhịp-nhàng, kèm theo các lời đệm tình-tính-tang tang-tính-tình, văn-bản tương-đối vững-

chắc, nhạc phụ-đệm tương-đối phong-phú; trái lại, các bản xẩm, vài—hay có khi chỉ có một—


nghệ-sỹ trình bày ở góc đường phố, xử dụng một hai cái đàn một giây, giọng nhiều lời ngâm ử-

ừ-ư...Các bà mẹ hát theo trí nhớ và có khi sửa đổi vài tiếng cổ sang tân-văn...Một thí-dụ tôi


thường nghe thấy là Người thì rất xấu, hát thì rất hay. Từ rất ngày nay thông-dụng chỉ về phẩm-

chất cao hơn thường. Các bà lớn tuổi ngày xưa không nói rất mà dùng cực chỉ mức cao tuyệt-

đối. Có các cụ ưa từ thậm; theo Khai-trí tiến-đức, thậm như là rất, lắm; theo cuốn tự-điển (mới


nhất Lê-Văn-Thu & Nguyễn-Hiền, 2023) Việt-ngữ Phổ-thông thì thậm là quá-sức; nói chung là

tột-bực.

Dị-bản cũng tùy theo tâm-trạng độc-giả đời sau muốn chuyện có hậu duyên sau lại lành hay

lâm-ly éo-le lấy nhau cũng không thành.

2- Phạm-Duy-Khiêm dẫn hai câu Kiều, 709-10, để nhấn mạnh vào chi-tiết thần-kỳ cho chuyện

thêm hấp-dẫn; ông dịch thành “Tant que la dette d’amour demeure,

Au Pays des Sources, la pierre d’amour ne peut fondre.”

Chi-tiết thần-kỳ nay có thể do tích Trương-Chi Mỵ-nương bên ta hay chuyện Quan Diệp Nhược

với thôn nữ Tần Thúy Hải bên Trung-quốc, thân-hình hay trái-tim đau-khổ hóa đá.

3- Bốn câu cuối vừa thần-kỳ vừa nặng tình lãng-mạn diễm-lệ, tạo ra cái kết có hậu.

4- Phần đầu giới thiệu hai nhân-vật với mâu-thuẫn: Trương-Chi có tài nhưng hình-dung khó coi


(mâu-thuẫn theo phép bù-trừ bỉ-sắc-tư-phong) ; họ có hai nếp sống khác ngược, bên phóng-

khoáng trên sông đối với bên kín cổng cao tường; mâu-thuẫn này có thể suy-diễn ra các nhân-

vật thuộc hai đẳng-cấp khác nhau với hai văn-hóa khác nhau, điều Nguyễn-Huy-Thiệp sẽ khai-

thác về sau, biến cái xấu hình-dung thành cái xấu văn-hóa, Trương Chi ăn-nói và hành-xử hơi


”thiếu văn-hóa”!

5- Sau sáu thập-niên chính-quyền Bảo-hộ tổ-chức hành-chánh và quản-trị nước ta, một số nhóm


ảnh-hưởng dần-dần thành-hình: một là số công-chức có Tây-học sinh-hoạt trong guồng-máy cai-

trị; hai là các doanh-thương-nhân bắt chước các sinh-hoạt dịch-vụ công-nghệ mới; ba là các trí-

thức do hệ-thống giáo-dục Pháp-Việt đào-tạo, được một số sinh-viên du-học từ Pháp về tăng-

cường. Trong sinh-hoạt văn-hóa, nhóm trí-thức chia đại-khái thành ba khuynh-hướng: bảo-thủ


tiệm-tiến ôn-cố TRI-TÂN, duy-tân theo mẫu Tây-phương THANH-NGHỊ và tự-lập HÀN-THUYÊN

về tắm ao nhà. Dùng văn quốc-ngữ có các tác-phẩm lịch-sử và văn-học như Nam-hải dị-nhân,


Rắn báo oán, Kho vàng Sầm-sơn, Qủa dưa đỏ. Một số tác-phẩm ra mắt bằng tiếng Pháp, giới-

thiệu văn-hóa Việt như kể trong thân bài.


9

6- Phạm-Duy-Khiêm: 1908-1974, là con nhà văn Phạm-Duy-Tốn và là anh nhạc-sỹ Phạm-Duy;

đậu Thạc-sỹ văn-phạm ở Paris, về cùng viết cuốn Việt-Nam văn-phạm với Trần-Trọng-Kim và

Bùi-Kỷ, đi dạy học ở các trường Bưởi và Albert Sarraut ở Hà-nội. Trong thế-chiến thứ hai, đầu


quân để đi đánh Đức “bảo-vệ văn-minh thế-giới”; 1954 đặc-nhiệm phủ Thủ-tướng thời Ngô-Đình-

Diệm; sau làm Đại-sứ VN tại Pháp và Đại-diện thường-trực cạnh UNESCO. Năm 1951, ông cho


xuất-bản cuốn Légendes des terres sereines (Truyện cổ-tích trên xứ-sở an-bình) gồm ba chục

truyện ngắn, truyện đầu là về Trương-Chi; nhiều tác-phẩm khác tiếp theo trong đó có các cuốn

La place d’un homme và Nam et Sylvie, cuốn sau này được giải-thưởng của Viện Hàn-lâm Pháp.

7- Lê-Thành-Khôi: 1923 –2025 là con GS Lê-Thành-Ý và rể DS Thẩm-Hoàng-Tín; ông là một

học-giả đa-ngành, có nhiều văn-bằng thuộc nhiều ngành chuyên-môn đa-dạng như tiến sĩ về

kinh tế học (1949 Paris), rồi Luật pháp quốc tế (La Haie, Hà Lan), cử nhân văn chương Sorbonne,

học Hán ngữ Trường Ngoại ngữ phương Đông (Paris). Năm 1968, ông bảo-vệ cùng lúc 2 luận

án tiến sĩ về công nghệ giáo dục và tiến sĩ ngành khoa học xã hội. Viết nhiều tác-phẩm lớn như

Le Viêt Nam: Histoire et civilisation (1955) và Histoire du Viêt Nam, des origines à 1858 (1982).

Cuốn Le Cristal d’Amour gom nhiều cổ-tích mà truyện cuối kể về Trương Chi, dùng tên truyện

làm tên chung cả cuốn sách. Mất tháng 2-2025, đại-thọ 101 tuổi.

8- Cho đến đầu năm 1945, nước ta còn bị phân-chia và là thuộc-địa. Trong năm 1945, hai lần

tuyên-bố Độc-lập (tháng 3 rồi tháng 9-1945); sau đó, tham-dự nhiều hội-nghị tầm-cỡ quốc-tế ở

Đà-lạt (4-1946) rồi Fontainebleau (7-1946) rồi Élysée(1949) Pau (6-1950) rồi Geneva (1954).

Khoảng giữa thế-kỷ 20, có những tác-giả viết Pháp-văn giới-thiệu văn-hóa cho thế-giới bên

ngoài.


9- Nguyễn-Mạnh-Tường: 1909—1997; lưỡng khoa tiến-sỹ ở tuổi 22-23, du-học ở Pháp về, chủ-

trương tạo lớp người mới để xây-dựng phương Đông theo mẫu cổ Hy-La, trình-bày trong bộ


sách Construction de L’Orient hai cuốn. Theo ông, lớp người mới có tư-duy, biết suy-nghĩ lý-luận


về thiên-nhiên và thế-giới thay vì nhắm mắt tin theo những lý-thuyết truyền-thống mơ-hồ huyền-

bí. Họ cũng nên nhớ rằng con người gồm cả phần thể-xác và tinh-thần, nên giữ thăng-bằng,


chẳng cần đi theo đường mòn khắc-kỷ hành xác vô-ích. Những giá-trị thời Phục-hưng ở Âu-châu

dần biến-chuyển thành giá-trị nhân-bản, con người mới biết suy-tư, biết lựa-chọn và có ý-chí

thực-hiện điều lựa-chọn; và nhận trách-nhiệm về việc lựa-chọn và thực-hiện. Kịch nhân-bản Anh


Chài Le pêcheur minh-họa nếp văn-hóa nhân-bản: do người (quyết-định) /bởi người (thực-

hiện)/cho người (nhận trách-nhiệm hay chịu hậu-quả).


10- Kịch múa rối, Un pêcheur nằm trong cuốn Le voyage et le sentiment, 1943; tái-bản với bản

chuyển-ngữ Anh Chài, 2015, Hoa-kỳ.


11- Trần-Huy-Minh, sinh năm 1979 ở vùng Paris, được bà nuôi và dạy-dỗ lúc nhỏ, biết về Việt-

Nam qua bà kể lại, đặc-biệt là về phong-tục và cổ-tích. Nhưng sau khi đi học xa và làm công-

tác văn-hóa, bà cảm thấy “dần dần xa bà” và xa những kỷ-niệm về Việt-Nam do bà kể. Để nhớ,


bà đã viết một cuốn Le Lac né en une nuit et autres légendes du Viêtnam (2008) và đầu năm

nay, 2025, một cuốn nhớ về bà, Ma grand-mère et le pays de la poésie, (2025) được giải-thưởng

tiểu-thuyết Marie Claire.


10

12- Mono no aware là một khái-niệm sống đẹp ở Nhật-bản từ thời trung-cổ, tương-đương với


ý-tưởng mọi việc không trường-cửu hay vĩnh-viễn mà chỉ thoáng-qua trong khoảng-khắc. Phật-

giáo gọi là vô-thường, dạy nên chấp-nhận và tránh sự tiếc-nuối bằng cách “buông”. Khái-niệm


của Nhật ít chú-trọng vào việc tránh cái khổ vì nuối-tiếc mà lại chú-trọng vào trân-quý và sống

hưởng hiện-tại. 

Comments

  1. Tôi xin sửa một cái sạn lớn trang 6 dòng năm: Thiếu-phụ Nam-Xương là do tôi gõ sai; đúng ra phải là Hòn Vọng-phu. Xin cáo lỗi. bsh

    ReplyDelete

Post a Comment

Popular posts from this blog

June 30, 2024 60 Năm Sau, Phát Hiện Từ Một Gốc Cây Gây Chấn Động Nước Anh!

October 28, 2023 Con chính là tất cả cuộc đời của mẹ.

March 6, 2024 Việt sử Tân Biên, Phạm Văn Sơn