August 9, 2025. MÁI TRƯỜNG XƯA, Phương Tuấn

                                                               MÁI TRƯỜNG XƯA

                                                                         Phương Tuấn


Nhớ về ngôi trường tiểu học của tôi, một thời đã xa, quá xa. Ba mẹ đi tản cư về, nhà nghèo xơ xác, đi học mặc bộ đồ pijama ở nhà, đi chân đất đến trường. Trường không xa. Từ nhà đến trường, ra khỏi nhà rẽ trái chừng trăm thước, rẽ trái lần nữa, chưa tới nửa cây số đã đến trường. Trường tôi đó, tiểu học của thành phố Tourane, không biết xây từ hồi nào, có lẽ từ thời tôi chưa sinh ra khá lâu, là một trong những trường tiểu học đẹp và bề thế nhất toàn Đông Dương. Trường có hành lang rộng với những cánh cổng vòng cung trước mỗi lớp học. Các lớp học rộng rãi thoáng mát. Toàn trường sơn một màu vàng, sạch sẽ. Đây là những năm tôi học từ lớp Ba, lên lớp Nhì nhất, Nhì nhị, và cuối cùng rất oai vang là học trò lớp Nhất Trường Tiểu học Pháp Việt thành phố Tourane. Gọi là Pháp Việt vì trường dành một góc trong trường dạy cho con cái các gia đình người Pháp trong thành phố. Cũng vì Pháp Việt nên lên đến lớp Nhì nhất tất cả các môn trong lớp đều dạy bằng tiếng Pháp, trừ mỗi tuần có hai giờ  Việt văn.

Tourane là thành phố nhượng cho nước Pháp. Vì sao Phố Hàn của tôi ngày đó mang tên Tourane? Dưới sức ép của Pháp, ngày 25-8-1883, triều đình Huế buộc phải ký Hiệp ước Harmand, qua đó chính thức công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Phố Hàn để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa ở đây.  Hiệp ước ký ngày 6-6-1884 là Hiệp ước Patenôtre, căn bản Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp dưới nhiều chế độ cai trị khác nhau.Ngày 27 tháng 8 năm Mậu Tý, tức ngày 3-10-1888, vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản quy định rõ:

 “Các lãnh thổ thuộc các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Phố Hàn được chính phủ Đại Nam kiến lập thành nhượng địa Pháp, và nhượng trọn quyền cho chính phủ Pháp, và chính phủ Đại Nam từ bỏ mọi quyền hành trên các lãnh thổ đó”.

Theo phụ đính của đạo dụ này, 5 xã của huyện Hòa Vang gồm Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây nằm bên tả ngạn sông Hàn được cắt giao cho Pháp để lập “nhượng địa”, và Phố Hàn, từ nay mang tên thành phố Tourane. 

Mười ba năm sau, Pháp lại một lần nữa gây sức ép buộc vua Thành Thái phải ký một đạo dụ ngày 15-1-1901, nới rộng nhượng địa Phố Hàn thêm 14 xã: Xuân Đán, Thạc Gián, Liên Trì, Bình Thuận, Xuân Hòa, Thanh Khê, Đông Hà Khê, Yên Khê thuộc huyện Hòa Vang và Mỹ Khê, An Hải, Tân Thái, Nại Niên Đông, Mân Quang, Vĩnh Yên thuộc huyện Diên Phước. Như vậy đến năm 1901, thành phố nhượng địa Tourane đã vươn về phía tây và tây bắc, còn phía đông thì đã vượt sang hữu ngạn sông Hàn chiếm trọn bán đảo Sơn Trà.


 Sân trường tiểu học của tôi rộng nhưng không có cột cờ giữa sân. Trường có cây bàng lá xanh xum xuê. Nhớ cây bàng trong trường, lại nhớ bài hát “Trường xưa’, tác giả có lẽ là Hoàng Quý, trưởng hướng đạo thập niên 1940 thế kỷ trước. Ngày đi Sói con, lúc đó gọi là Louveteaux de France, tuy đám nhóc con thời đó có tôi là những em bé Việt Nam da vàng mũi tẹt chẳng có gì là “de France”, anh Akela đã dạy chúng tôi bài “Trường xưa”:

“Bao tháng ngày xa vắng trôi, còn đây mái trường xưa…Cây bàng xưa kia lá tốt xanh tươi, chạnh lòng ai nhớ tiếc không nguôi…

 Lên đến lớp Nhì hình như chúng tôi đã hết tập viết, nhưng các lớp dưới thì còn. Thời đó chưa có bút bi như bây giờ, nhưng qua lớp Nhất tôi đã có bút máy, không còn xách bình mực đến trường. Ba mẹ mua cho bút máy Parker, muốn đổ mực vào phải xoay cây bút, để lộ một ống cao su cắm vào ngòi bút, để ngòi bút vào bình mực và hút mực vào. Đó là bình mực xanh hiệu Waterman, nay không còn thấy bán. Nhờ cây bút máy và mực tốt viết không nhem. Như vậy là văn minh lắm.

Đến đầu mỗi niên học, tôi xin tiền mẹ đi mua tập vở mới, những tập 100 trang, bìa ngoài thường vẽ hình máy bay hay tàu thuỷ. Mua thêm giấy kiếng bọc lại cẩn thận, trân quý từng cuốn tập.

 Ôi một thời trẻ thơ dễ thương chi lạ. Nay tìm đâu, tìm đâu những ngày xưa đó, khi cầm tập vở trên tay, trân quý từng trang giấy thơm mùi giấy mới.

Gần cuối mỗi niên học, vào đầu tháng sáu khi ve sầu bắt đầu lên tiếng râm rang, và hàng phượng vĩ bên kia đường trổ hoa thắm đỏ, lòng chúng tôi lại rộn ràng vì kỳ nghỉ hè ba tháng sắp đến.

Sau 3 năm Nhì nhất, Nhì nhị, và lớp Nhất, tiếng Pháp lỏm bỏm của tôi đã cho tôi biết đến một số sách của văn học Pháp, những cuốn dễ đọc như các tác phẩm của Alphonse Daudet. 

Trong “Lettres de Mon Moulin”“Les étoiles”, câu chuyện dễ thương của người chăn cừu và cô chủ. Người chăn cừu kể chuyện mình, trên những ngọn đồi Luberon, có khi đi hàng tuần trên núi đồi cỏ với đàn gia súc, nhưng chẳng gặp bóng người. Và cứ mỗi hai tuần lại đợi. Cứ hai tuần một lần, khi nghe thấy trên con đường núi lên dốc, cái chuông đeo ở cổ con la kêu leng keng, người chăn cừu biết có người từ trang trại của chủ mang đồ ăn lên. Từ con dốc núi thấy ló lên cái đầu của cậu bé nông trại, hoặc chiếc mũ đội đầu màu đỏ của vú già Norade xuất hiện từng chút một trên ngọn đồi, chú chăn cừu rất vui. Vui vì nghe được tin tức từ vùng bình nguyên: như các lễ rửa tội, lễ cưới; nhưng điều khiến chú quan tâm nhất là muốn biết chuyện gì đang xảy ra với cô con gái của chủ nhân, tiểu thư Stephanette, người đẹp nhất trong vòng mười dặm.

Nhưng có một ngày không phải cậu bé nông trại hay vú già Norade mà chính cô tiểu thư Stephanette mang thức ăn đến cho chú. Chiều hôm đó vì cơn mưa giông quá lớn nên cô không thể trở lại nông trại.

Tối hôm đó chú chăn cừu đốt đám lửa cho cô chủ sưởi ấm, dựa vào vai chú, cô chủ hỏi khi nhìn lên trời đầy trăng sao: 

“Est-ce que tu sais leurs noms, berger ?— Mais oui, maîtresse… Tenez ! juste au-dessus de nous, voilà le Chemin de Saint Jacques (la voie lactée). Il va de France droit sur l’Espagne. C’est Saint Jacques de Galice qui l’a tracé pour montrer sa route au brave Charlemagne lorsqu’il faisait la guerre aux Sarrasins. Plus loin, vous avez le Char des âmes (la grande Ourse) avec ses quatre essieux resplendissants. Les trois étoiles qui vont devant sont les Trois bêtes, et cette toute petite contre la troisième c’est le Charretier. Voyez-vous tout autour cette pluie d’étoiles qui tombent ? Ce sont les âmes que le bon Dieu ne veut pas chez lui… Un peu plus bas, voici le Râteau ou les Trois rois (Orion). C’est ce qui nous sert d’horloge, à nous autres. Rien qu’en les regardant, je sais maintenant qu’il est minuit passé. Un peu plus bas, toujours vers le midi, brille Jean de Milan, le flambeau des astres (Sirius).… Mais la plus belle de toutes les étoiles, maîtresse, c’est la nôtre, c’est l’Étoile du berger, qui nous éclaire à l’aube quand nous sortons du troupeau, et aussi le soir quand nous le rentrons. Nous la nommons encore Maguelonne, la belle Maguelonne qui court après Pierre de Provence (Saturne) et se marie avec lui tous les sept ans.

— Comment ! berger, il y a donc des mariages d’étoiles ?

— Mais oui, maîtresse. »

Et comme j’essayais de lui expliquer ce que c’était que ces mariages, je sentis quelque chose de frais et de fin peser légèrement sur mon épaule. C’était sa tête alourdie de sommeil qui s’appuyait contre moi avec un joli froissement de rubans, de dentelles et de cheveux ondulés. Elle resta ainsi sans bouger jusqu’au moment où les astres du ciel pâlissaient, effacés par le jour qui montait. Moi, je la regardais dormir, un peu troublé au fond de mon être, mais saintement protégé par cette claire nuit qui ne m’a jamais donné que de belles pensées. Autour de nous, les étoiles continuaient leur marche silencieuse, dociles comme un grand troupeau ; et par moments je me figurais qu’une de ces étoiles, la plus fine, la plus brillante, ayant perdu sa route, était venue se poser sur mon épaule pour dormir.”


“Chú có biết tên các vì sao đó không?

 "Vâng, thưa cô chủ... 

Nhìn kìa! Ngay phía trên chúng ta là Con đường của Thánh James (Dải Ngân Hà). Nó chạy từ Pháp thẳng đến Tây Ban Nha. Chính Thánh James xứ Galicia đã lần theo nó để chỉ cho Charlemagne, con người dũng cảm, lộ trình khi ông tiến hành chiến tranh chống lại người Sarrasins. Xa hơn nữa, có Cỗ xe của Linh hồn (Đại Hùng) với bốn trục rực rỡ. Ba ngôi sao phía trước là Ba Con Thú, và ngôi sao nhỏ này so với ngôi sao thứ ba là Carter. Cô có thấy xung quanh cơn mưa sao rơi đó không? Đó là những linh hồn mà Chúa tốt lành không muốn có trong ngôi nhà của Người... Thấp hơn một chút, có Chòm sao Cào hoặc Ba Vua (Orion). Đó là thứ tôi dùng làm đồng hồ. Chỉ cần nhìn vào chúng, tôi biết ngay rằng đã quá nửa đêm." Thấp hơn một chút, vẫn về phía nam, John xứ Milan tỏa sáng, ngọn đuốc của các vì sao (Sirius).... Nhưng ngôi sao đẹp nhất trong tất cả các ngôi sao, thưa cô, đó là Ngôi sao của Người chăn cừu, soi sáng con đường của chúng tôi vào lúc bình minh khi chúng tôi dẫn đàn cừu ra ngoài, và vào buổi tối khi chúng tôi đưa chúng về. Tôi vẫn gọi ngôi sao ấy là Maguelonne, Maguelonne xinh đẹp chạy theo Peter xứ Provence (Sao Thổ) và cưới anh ta bảy năm một lần.

"Cái gì! Chú chăn cừu, vậy là có cuộc hôn nhân của các ngôi sao sao?”

"Vâng, thưa cô."

Và khi tôi cố giải thích cho cô ấy biết những cuộc hôn nhân này là gì, tôi cảm thấy có thứ gì đó mát lạnh và tinh tế đè nhẹ lên vai mình. Đó là đầu cô ấy, nặng trĩu vì ngủ, tựa vào tôi với tiếng sột soạt dễ thương của những dải ruy băng, ren, và mái tóc gợn sóng. Cô ấy vẫn nằm như vậy không nhúc nhích cho đến khi những vì sao trên bầu trời nhạt dần, bị xóa nhòa bởi ngày đang lên. Tôi ngắm cô ấy ngủ, có chút bối rối trong sâu thẳm, nhưng được bảo vệ bởi đêm thanh trong vắt này, đêm chưa bao giờ cho tôi bất cứ điều gì ngoài những ý tưởng đẹp đẽ. Xung quanh chúng tôi, những vì sao tiếp tục cuộc hành trình im lặng của chúng, ngoan ngoãn như một đàn gia súc lớn; và đôi khi tôi tưởng tượng rằng một trong những vì sao này, ngôi sao đẹp nhất, sáng nhất, đã lạc đường, đã đến nghỉ ngơi trên vai tôi để ngủ…”


Ôi, một áng văn chương tuyệt vời tôi đọc được trong tuổi thơ tôi.


Ngày đó học xong lớp Nhất thi Primaire, tôi 12 tuổi. Thi không bắt buộc phải đậu để lên Trung học, nhưng bộ Giáo dục Pháp bắt buộc phải đủ 14 tuổi mới được thi. Ba tôi phải khai giấy khai sinh lại cho đủ tuổi 14. Người Pháp đưa chương trình Tiểu học thay vì 5 năm thành 6 năm, tuy vậy không có Mầm non,  Vườn trẻ, hay Mẫu giáo.

Năm đó thi đậu Primaire xong, phần thưởng cuối năm của tôi có thêm cuốn sách” “La case de l'oncle Tom”, tác giả là Harriet Beecher Stowe. Tên gốc sách là “Uncle Tom's Cabin or, Life Among the Lowly”. Nhà xuất bản John P. Jewett and Company, sau khi đăng nhiều kỳ trên The National Era bắt đầu từ ngày 5 tháng 6 năm 1851, đã xuất bản Tập I của ấn bản đầu tiên của Uncle Tom's Cabin (1852) và xuất bản toàn tập vào ngày 20 tháng 3 năm 1852.

“Uncle Tom's Cabin; or, Life Among the Lowly”, là một tiểu thuyết chống chế độ nô lệ. Cuốn tiểu thuyết đã có tác động sâu sắc đến thái độ đối với người Mỹ gốc Phi và chế độ nô lệ ở Hoa Kỳ, và được cho là đã "góp phần đặt nền móng cho Nội chiến Hoa Kỳ".

Stowe, một giáo viên sinh ra ở Connecticut, là thành viên của gia đình Beecher sùng đạo, và là một người đòi bãi bỏ chế độ nô lệ một cách tích cực. Bà viết cuốn tiểu thuyết tình cảm này để mô tả thực tế của chế độ nô lệ, đồng thời khẳng định rằng tình yêu của người theo đạo Thiên Chúa có thể vượt qua chế độ nô lệ. Cuốn tiểu thuyết tập trung vào nhân vật Bác Tom, một nô lệ da đen, người mà các câu chuyện của các nhân vật khác xoay quanh.

Tại Hoa Kỳ, “Túp lều Bác Tom” là cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất, và là cuốn sách bán chạy thứ hai của thế kỷ 19, sau Kinh thánh. Cuốn tiểu thuyết được cho là đã góp phần thúc đẩy việc bãi bỏ chế độ nô lệ vào những năm 1850. Ảnh hưởng cuốn sách lớn đến mức một câu chuyện có vẻ ngụy tạo nói về việc Abraham Lincoln gặp bà Stowe vào đầu cuộc Nội chiến và tuyên bố: 

"Vậy ra đây là cô gái nhỏ đã bắt đầu cuộc chiến tranh vĩ đại này.”

Tôi say mê đọc văn bản tiếng Pháp “La Case de l’ Oncle Tom”, với nhiều lần nước mắt ướt mi, vì câu chuyên về đời sống nô lệ của chú Tom và các nhân vật vây quanh chú quá thê thảm, bi thương. Cuốn sách của bà là một kiệt tác làm say mê người đọc, hấp dẫn từ đầu đến cuối. Không biết bây giờ các cháu nội ngoại của tôi có còn đọc sách này không?


Một cuốn sách khác tôi đã được đọc trong thời thơ ấu hoa niên đó là cuốn:

"Le livre de mon ami” của Anatole France. Xin trích một đoạn ở dưới đây:

“Je vais vous dire ce que me rappellent, tous les ans, le ciel agité de l'automne, les premiers dîners à la lampe et les feuilles qui jaunissent dans les arbres qui frissonnent ; je vais vous dire ce que je vois quand je traverse le Luxembourg dans les premiers jours d'octobre, alors qu'il est un peu triste et plus beau que jamais ; car c'est le temps où les feuilles tombent une à une sur les blanches épaules des statues. Ce que je vois alors dans ce jardin, c'est un petit bonhomme qui, les mains dans les poches et sa gibecière au dos, s'en va au collège en sautillant comme un moineau. Ma pensée seule le voit ; car ce petit bonhomme est une ombre ; c'est l'ombre du moi que j'étais il y a vingt-cinq ans .... Il y a vingt-cinq ans, à pareille époque, il traversait, avant huit heures, ce beau jardin pour aller en classe. Il avait le cœur un peu serré : c'était la rentrée. Pourtant, il trottait, ses livres sur son dos, et sa toupie dans sa poche. L'idée de revoir ses camarades lui remettait de la joie au cœur…”


“Tôi sẽ kể cho bạn nghe những gì tôi còn nhớ, mỗi năm khi bầu trời mùa thu buồn bã, những bữa tối đầu tiên dưới ánh đèn, và những chiếc lá vàng trên những hàng cây run rẩy. Tôi sẽ kể cho bạn nghe những gì tôi thấy khi đi qua vườn Luxembourg vào những ngày đầu tháng Mười, khi nơi đây có chút buồn và đẹp hơn bao giờ hết; vì đó là thời điểm những chiếc lá lần lượt rơi xuống đôi vai trắng của những pho tượng. Khi đó, tôi thấy trong khu vườn này một anh chàng nhỏ bé, tay đút túi quần và cặp đeo trên lưng, đang đi đến trường, nhảy nhót như một chim sẻ. Chỉ có suy nghĩ của tôi mới nhìn thấy chú ấy; vì chú bé này là một cái bóng. Đó là cái bóng của tôi cách đây hai mươi lăm năm...Hai mươi lăm năm trước, vào thời điểm này, cậu bé đang băng qua khu vườn xinh đẹp này trước tám giờ để đến lớp. Lòng cậu hơi nặng trĩu: đó là ngày đầu năm học. Nhưng cậu vẫn rảo bước, sách vở trên lưng, và con vụ trong túi. Ý nghĩ được gặp lại bạn bè khiến cậu vui sướng…”


Đoạn văn này làm tôi nhớ lại bài văn ”Tôi đi học”, của nhà văn Thanh Tịnh:

“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.

Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.

Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã…”


Đoạn văn dễ thương của Thanh Tịnh tôi đã được học tại lớp Nhì nhất trong giờ Việt văn. Ngày đó thầy tôi còn dạy những đoản văn của Nguyễn Bá Học như bài “Hy vọng”:

“Làm người ai cũng có hy vọng, như người làm ruộng mong cho đến ngày gặt lúa, kẻ đi đường mong cho đến chỗ nghỉ chân…”


Cả một thời thơ ấu mộng mơ. Thời gian trôi đi vùn vụt, tất cả qua đi, nay chỉ còn lại những đốm mờ của những kỷ niệm đẹp, mãi sống trong tôi. 

Các thầy tôi đã ra đi, các bạn tôi ai còn ai mất?

Ngày hôm nay ngồi viết lại những dòng tư tưởng này, thầm cảm ơn các người thầy các lớp tiểu học của tôi. Đó là thầy Thi, ông còn trẻ lắm, độ trên 40, đi dạy học mặc áo chemise ngắn tay và quần short. Thầy Lang độ tuổi trên 60, mang kiến trắng, luôn mặc áo dài the đen, trông ông già hơn tuổi. Cụ Đốc Ngoạn trên 70 đã về hưu nhưng thỉnh thoảng ghé lớp dạy chúng tôi. Ông hiệu trưởng người Pháp thường ghé lớp Nhất dạy chúng tôi các bài hát Pháp vào mỗi chiều thứ bảy. 

Ngày xưa đó chúng tôi học ngày hai buổi, tuần 6 ngày, không như bây giờ.

Sau hết thầy Trịnh Thể, thầy không dạy các lớp Tiểu học, nhưng chẳng bao giờ tôi quên thầy. Thầy dạy tôi ba tháng hè ngày ba tiếng. Một người thầy đúng mực luôn thương yêu học trò. Cuối mỗi buổi học thầy luôn dành 10 phút kể cho chúng tôi nghe những chuyện “Đời Xưa”. Đây là những chuyện những nhân vật lịch sử khí phách, những đôi tri kỷ như Kinh Kha-Cao Tiệm Ly, Bá Nha-Tử Kỳ, những tri kỷ chỉ có trong những thế kỷ xa, thật xa, tìm đâu thấy ở thời nay…

Ôi cả một dĩ vãng xa xưa chìm trong ký ức ngủ quên của tôi, nay thức giấc.


50 năm đã qua từ ngày 30/4/1975 đó, tôi rời phố Hàn, chưa một lần về lại quê hương để ghé thăm trường cũ. Không biết trường xưa nay có còn là trường tiểu học cho các em nhỏ thành phố Đà Nẵng?

Thời gian đi nhanh quá, và tuổi đời mỗi ngày mỗi lớn, chắc sẽ chẳng còn dịp nào để ghé lại Phố Hàn xưa tìm lại bóng hình cũ là thằng tôi đi chân đất, mặc pijama đến trường. Những người thầy xưa đã đi xa, và bạn xưa thời tiểu học nay còn ai?

Hôm nay viết về trường xưa nhớ đến công ơn của các thầy, qua các lớp đã dạy tôi những năm đầu đời, những bài học mà mãi đến khi tuổi đã cao vẫn còn giá trị:

 “Tiên học lễ, hậu học văn”, 

 “Uống nước nhớ nguồn”. 

Con cảm ơn các thầy đã dạy tuổi thơ con những bài học để bước vào đời, để sống như một con người có đức hạnh, để nhớ rằng sau này là ông gì trong xã hội, cũng phải kính trên, nhường dưới, và nhớ công ơn tiền nhân.

Xin gửi đến các thầy một nén hương lòng như lời cảm ơn muộn màng của một người học trò đã được các thầy dạy dỗ và mến thương.

                                                                         Phương Tuấn

Comments

Popular posts from this blog

June 30, 2024 60 Năm Sau, Phát Hiện Từ Một Gốc Cây Gây Chấn Động Nước Anh!

October 28, 2023 Con chính là tất cả cuộc đời của mẹ.

March 6, 2024 Việt sử Tân Biên, Phạm Văn Sơn