October 2, 2025. TRƯỜNG CŨ, BẠN BÈ XƯA, Phương Tuấn

 


                                                      TRƯỜNG CŨ, BẠN BÈ XƯA

                                                                                                                                   Phương Tuấn


Cách đây trên 10 năm, khi tôi còn làm việc, một hôm được điện thoại từ Paris.

-  Tùng ơi, khoẻ không, Hà Thúc Đạt đây.

-  Lâu dữ, làm gì hôm nay mới gọi thăm mình.

-  Ừ, cũng có chuyện. Bọn Blaise Pascal sẽ tổ chức họp mặt toàn thế giới Tết này tại Đà Nẵng.

-  Blaise Pascal thì có dính dáng gì đến bọn mình?

-  Có chớ, Blaise Pascal là hậu thân của Collège Francais de Tourane, bọn nó sau mình vài năm khi trường mình đổi tên thành Lycée Blaise Pascal. Anh có về được không? Bạn bè mình thời Collège cũng còn khá đông

-  Ai mà đông, Đạt kể mình nghe

-  Này Paris có mình Hà Thúc Đạt, Canada có Từ Thị Quỳnh Giao, có Âu băng Tường, Mỹ có anh, Vương Ngọc Lâm, Vương ngọc Diệp, Lâm Phát Giang, Huế, Việt Nam có Nguyễn Định Quốc, Hồ Tăng Bính, có Mai văn Thuyết, Saigon ra có Đặng thị Thu Vân, và ai biết đâu, nếu bên Đức Phan văn Liễu biết tin sẽ về và anh sẽ gặp lại nó. Anh sẽ gặp lại Thu Vân. Ngày xưa có lần anh tâm sự với mình xong trung học Thu Vân ra Huế học tại Providence, viết thư cho anh bảo Huế buồn quá sẽ vào Saigon học với anh, anh nhớ không và anh gọi Thu Vân là “My high school sweetheart”?

-  Ừ nhỉ, vậy là khá đông. Để mình xem sao. Bà xã mình không được khoẻ.

-  Hoặc là anh mang bà xã theo, hoặc là gửi bà xả cho đứa con nào đó, đi và về có 2 tuần thôi

=  Lâu quá mình chưa về thăm Đà Nẵng một lần, nhớ lắm, làm sao quên được nơi bọn mình ngày xưa, những năm trung học ở thành phố quá dễ thương đó hả Đạt. Nghe Đạt kể đến tên các bạn mới đó mà trên mấy mươi năm từ ngày rời trường, chưa bao giờ được gặp lại một người nào để tay bắt mặt mừng… Đạt ơi, có nhớ Phan văn Liễu không? Con trai gì mà không đánh son, môi và hai má luôn hồng. Lần chót mình gặp Liễu ở trại tỵ nạn Tanjung Pinang, Indonesia, là trại chuyển tiếp trước khi đi Mỹ. Hôm đó có tý tiền người thân ở Mỹ gửi cho, mình mua gà nấu một nồi cháo gà có mời Liễu đến ăn, nhưng thấy Liễu không vui. Hỏi Liễu, Liễu bảo có cả vui lẫn buồn, vui vì tiễn gia đình mình đi Mỹ, buồn vì biết bao giờ gặp lại vì Liễu được tàu Đức vớt phải đi Đức. Từ đó đến nay mình cố gắng tìm Liễu qua các bạn bè bên Đức nhưng không có tin gì. Nghe Đạt nhắc đến các bạn, mình nhớ từng khuôn mặt. Nguyễn Định Quốc, cao lớn, ít nói nhưng một tay viết văn rất cừ, sau này là giáo sư, triết gia. Hồ Tăng Bính vào quân đội, bị Việt Cộng bắt trong Tết Mậu Thân đưa vào bưng, đào thoát với một người bạn, vượt sông Mê Kông, chưa đến đất Lào thì bị bắt lại, bị đưa ra Bắc, ở tù, mãi đến 1976 mới được trả tự do. Khi về lại Huế thì tan thương. Bà vợ tưởng Bính đã chết sang ngang với một ông Đại Hàn và dẫn con sang Mỹ.


Qua câu chuyện của Đạt, tôi thấy như dòng sông Hàn vẫy gọi, và ngọn núi Tiên Sa vẫy chào:

“Hỡi người con xứ Hàn

Đi chi đi mãi

Có nhớ về quê xưa,

Có nhớ dòng sông chờ đợi

Có nhớ núi xưa trông chờ

Về đi , về đi thôi…”

Dòng sông Hàn vẫn còn đó, ngọn Tiên Sa vẫn còn đây. Lòng hỏi lòng vì đâu ta chưa về thăm lại chốn xưa. Chốn xưa nơi cha mẹ  đã sinh ra ta, ta đã lớn lên vui chơi bên dòng sông Hàn. Nhớ ơi là nhớ quê xưa, con đò, bến cũ những ngày thơ dại. Đã bao nhiêu năm, bao nhiêu nước dòng Hàn giang đã đổ ra Biển Đông. Nhớ những đêm trăng thu tháng tám mặt nước sông sóng gợn lăn tăn và muôn ngàn tia sáng trăng nhấp nhô trên dòng, và ngọn Tiên Sa bên trái mờ ảo dưới ánh trăng. Một số lớn bạn tuổi thơ nay đã thành “những người muôn năm cũ”.

Năm 13 tuổi mẹ mua cho chiếc xe đạp đầu tiên. Ôi vui mừng biết bao, chiếc xe đưa tôi đến trường Trung Học đầu tiên của phố Hàn, ngày bốn bận, sáng đi trưa về, trưa đi chiều 5 giờ về. Và những đêm có trăng sao cùng hai ba đứa bạn thân, đạp xe vòng vòng thành phố, gió sông Hàn lên lồng lộng. Đường xá vắng vẻ, có lẽ như phố Hàn ngày đó là của riêng chúng tôi đạp xe vui chơi.

Mới đó mà đã bao nhiêu năm, lâu như một đời người. Hôm nay ngồi viết lại vẫn nhớ như in những con đường xưa, khi phố Hàn  thuở đó chưa tới 90 ngàn dân. Xe hơi vài ba chiếc, một chiếc Simca màu xám nhạt của bác sĩ Lê Nguyên Cát, một chiếc  Citroen đen của bác sĩ Trần Đình Nam để trong garage chẳng bao giờ lái đi. Ngoài ra thỉnh thoảng có vài chiếc xe nhà binh của Pháp chạy qua thành phố, vì ngày đó còn chiến tranh giữa Pháp và các lực lượng Việt Nam đánh nhau với Việt Minh. Chiến tranh rất xa thành phố, vì chẳng bao giờ nghe tiếng súng.


Nhớ quê xưa, chẳng đặng đừng, tôi mua vé và hai vợ chồng lên đường về phố Hàn. Phố Hàn ngày nay khác xa quá nhiều, nhìn không ra những con đường cũ. Những con đường nay mang những tên lạ hoắc…Lớp College Francais de Tourane bọn tôi về đủ cả như trong danh sách Đạt nói với tôi qua phone. Có cả Âu thị Minh Nguyệt em gái của Âu Bang Tường từ Nha Trang ra. Minh Nguyệt bỏ Canada về lại Nha Trang sinh sống.


-  Nguyệt ơi, anh Tùng đây, nhớ mình không. Ngày ở College thường gặp Nguyệt mỗi lần được gọi lên Conseil des Professeurs. Bao nhiêu năm rồi không còn gặp lại Nguyệt dù vẫn biết tin Nguyệt qua anh Tường, anh của Nguyệt.

-  Nhớ chớ anh, ngày bọn mình xa nhau, Nguyệt sau đó có học bổng đi Canada và ở lại bên đó lập nghiệp luôn.


Thế rồi cả bọn chúng tôi dẫn nhau đi bộ ngang qua trường cũ. Gần thôi, vì nơi họp là khách sạn Continental trên đường Độc Lập không xa trường. Con đường nay mang tên Trần Phú, cũng là con đường phượng đỏ và lá me bay, nhưng trường chẳng còn. Một building lớn mọc lên ngay dãy nhà ngang ngói đỏ. Sáu gian mà mỗi gian là một lớp học. Cây cầu nhỏ bắc qua dòng suối, những ngày mưa lớn mùa đông thường có nước vẫn còn. Bên kia cây cầu là cây cổ thụ, cây đã chứng kiến bước chân của chúng tôi những ngày còn thiếu niên, và cây cầu nhỏ cũng là nơi tụ hội đám học sinh những giờ ra chơi.

Trường xưa là thành lũy của cụ Nguyễn Tri Phương, trấn cửa biển phố Hàn. Thành rộng mênh mông. Sau này người Pháp lấy thành làm Quân Y Viện, với nhiều dãy nhà vòm. Khi quân đội Pháp rời đi vào năm 1954, dãy nhà vòm thành các lớp học của trường Trung học Pháp.


Về lại khách sạn nơi hội họp tôi gặp đủ cả những người Đạt nói trên. Mừng quá khi gặp lại Phan văn Liễu.

-   Liễu ơi, mình tìm cậu quá trời sau bao nhiêu năm từ ngày rời nhau ở trại tỵ nạn Tanjung Pinang, Indonesia. Làm sao Liễu biết tin có họp bạn mà về?

Nhớ, thì làm gì cũng có cách, nên cố gắng về thăm. Sau khi anh đi vài tháng thì mình đi Đức, định cư tại đó luôn. Đức có khó khăn hơn Mỹ một chút, nhưng ở riết rồi cũng quen. Nay gặp lại anh mừng quá.


Rồi thì Vương Ngọc Lâm, bạn cố tri.

Lâm ơi, biết Lâm qua Mỹ trễ vì ở tù lâu quá, trên 10 năm. 

-  Lâm bây giờ làm gì?

-  Đâu có làm gì anh Tùng, bây giờ nhớ bạn thì đến gặp trước đã, sau sẽ tính.


Và đây Thu Vân

-  Thu Vân ơi, thế mà mãi đến nay mới gặp lại người xưa. Lần chót đến nhà Thu Vân là hè 1962, sau khi Vân tốt nghiệp Sư phạm Pháp văn tại Đà Lạt và sắp đi nhận nhiệm sở trường trung học công lập Nha Trang. Trông Vân vẫn chẳng khác gì ngày còn trung học, cũng chiếc áo dài màu thiên thanh và khuôn mặt hiền như Đức Mẹ, chỉ có già dặn hơn xưa thôi.

Vân có nhớ một ngày hè sau kỳ thi Tú tài 1, Tùng đến nhà Vân đường Phan Thanh Giản và hôm sau Vân lên nhà thăm Tùng, tưởng là năm chót trung học hai đứa học hai trường, vì ngày đó Vân bảo sẽ ra Providence, Huế học Terminales. Một tháng sau Tùng ở Saigon được thư Vân, Vân bảo Huế mưa dầm dề, lê thê, lớp học chỉ có mình Vân con gái. Buồn quá, Vân muốn vào Saigon học với Tùng, và Vân vào thật…

-  Vân nhớ chớ. Vân chỉ học ở Providence có 3 tuần rồi vào Saigon, ở nhà ông chú. Vân vào lớp là người chót nên được sắp ngồi cuối lớp với Tùng. Đó là một năm vui với biết bao nhiêu kỷ niệm thời mới lớn.

-  Thế rồi bọn mình xa nhau khi vào Đại học.

-  Biết làm sao, đời có số cả, có những chuyện mình tính nhưng ông Trời tính khác.

-  Tùng rất mừng cho Vân là mọi sự bình an, và Vân có hai con trai nay thành hai bác sĩ giỏi làm vẻ vang gia đình.


Gặp lại Nguyễn Định Quốc.

-  Quốc ơi, nhớ thằng Đạt hay nói chơi:”Mấy thằng ngồi sau hay chót lớp là mấy thằng học dốt, sợ thầy nên phải ngồi phía sau”. Nó hay nói chơi vậy thôi chứ Đạt biết Quốc ngồi chót lớp nhưng bài Philo Quốc nhất lớp, sau nay Quốc là văn sĩ viết cho báo Quân Đội và xuất bản sách.


Gặp lại Từ thị Quỳnh Giao.

-  Quỳnh Giao ơi, mừng quá, xa Quỳnh Giao từ ngày xong tú tài 2. Nhớ ngày thi Tú tài 1 tại Đà Nẵng, không biết sao người ta lại xếp Quỳnh Giao ngồi sau lưng Tùng.

-  Từ ngày qua Canada, Quỳnh Giao luôn hỏi bạn bè có biết Tùng ở đâu không, nhưng không thấy…

-  Tùng kẹt lại  Việt Nam 4 năm, rồi thì boat people…bao nhiêu biến cố đau thương, khi nào rảnh sẽ kể Quỳnh Giao nghe…


-  Ồ, Lâm Phát Giang, lâu lắm mới gặp lại từ ngày xong tú tài 1. Nghe nói Giang một thời lẫy lừng, là cánh tay mặt của Tướng Sáu Lèo. Giang oai vang từ ngày trung học, lái xe Volkswagen đi học. Không quên Giang đâu.

-  Làm sao mình quên anh được. Vẫn nhớ anh, có điều hai đứa ở xa nhau quá, anh ở tận Đông Nam, mình ở tận Tây bắc đất nước Hoa Kỳ.


Đang nói chuyện với Giang thấy ngoài trời đã tối, chắc mình phải xin phép Giang và các bạn về trước. Bà xã mình định đi chung với mình tới gặp bạn bè, nhưng hôm nay hơi mệt nên nghỉ ở nhà trên đường Bạch Đằng. Phải về thôi, không bà đợi cơm. Khi ra khỏi phòng họp trời đổ mưa nhẹ, định thuê taxi, nhưng sờ túi sau mới biết ngày hôm nay vội quá để quên bóp ở nhà. Thôi thì lội bộ chút không sao. Thành phố Đà Nẵng sau 50 năm lớn khủng khiếp, có ai là dân ngày xưa về lại đây mới thấy điều khác biệt. Những con đường cũ nhận không ra, vì nhà nào cũng xây lên cao ba bốn tầng, vì đất hẹp người đông. Tôi cứ theo đường bờ sông mà đi. Con đường trước mặt dài thăm thẳm, đi hoài không hết. Sợ ở nhà trông tôi sờ túi quần rút điện thoại gọi nhà, nhưng không thấy điện thoại đâu, hôm nay vui quá, vội thăm bạn nên quên cả điện thoại. Tôi giận mình quá sức. Mấy ngày trước Đà Nẵng có lụt nên con sông Hàn nước lên mấp mé đường Bạch Đằng. Bỗng mưa càng lúc càng dữ dội, mưa như thác đổ, tôi lại không đem áo mưa, ướt như chuột, lạnh quá sức. Một tiếng sét nổ to trên đầu, bỗng tất cả đèn phố ngoài đường vụt tắt tối om.

Lạc mất rồi, không phải con đường Bạch Đằng dẫn vào căn phố lầu bà xã tôi đang trú ngụ, phố xá về khuya vắng tanh, biết ai đâu mà hỏi đường. Gió thổi làm tôi rùng mình ớn lạnh và thức tỉnh. Ôi chỉ là giấc mơ thôi. Trời lạnh vì tôi không đắp mền.


Lại thêm một cơn mơ nữa. Từ ngày xa quê hương đến nay, đã bao nhiêu lần mơ về quê xưa, giấc mơ đến như thật, và lần nào cũng vậy, vẫn ở đây trên đất Mỹ.

Từng khuôn mặt bạn bè tôi hiện ra, sống động, những khuôn mặt thiếu niên thuở trung học.

Đây Lâm Phát Giang, cùng lớp 2 năm, mặt mày trông bặm trợn, nhưng tâm rất hiền, rất thương tôi. Nhớ cách đây trên 15 năm có lần anh gọi tôi từ Spokane, Washington State:
“Anh Tùng ơi, bao giờ anh lên Spokane thăm tôi…”Ngày đó anh đã đau khá nặng, không lâu sau anh bỏ tôi “ra đi” trước, như vậy là 14 năm rồi.


Đây Vương Ngọc Lâm, bạn nối khố, nhớ Lâm người cao nhất lớp. Tôi nói gì Lâm cũng nghe theo, tưởng như tri kỷ. Xa Lâm ngày rời  trường y khoa. Tìm Lâm mãi đến năm 2000 mới gặp lại Lâm qua điện thoại, rồi Lâm cũng “ra đi” trước tôi như Lâm Phát Giang.


Được tin Quỳnh Giao đang ở Canada, khi tìm được email, tin kế tiếp là tin Quỳnh Giao đã "ra đi".


Phan văn Liễu cho tới ngày hôm nay vẫn vắng tin, lưu lạc phương trời nào trên đất Đức. Liễu ơi có nhớ người bạn xưa?


Và Nguyễn Định Quốc, gặp lại qua Facetime 2 năm liền, rồi anh đột ngột ra đi. 25 tháng 9 năm này là giỗ 2 năm của Quốc đó. Nhớ cách đây 2 năm, cứ 2 ngày Quốc lại lên Facetime:

“Tùng ơi, cậu viết gì đó, đọc nghe coi”. 

2 năm liền, Quốc là người nghe tất cả các bài suy niệm của tôi. Nay Quốc đã ở trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa Cha. Quốc là người đi tìm Người và Quốc đã gặp.


Và đây Thu Vân, nàng tiên áo màu thiên thanh, sắp hàng vào lớp luôn là người đứng hàng đầu bên tay trái. Vẫn khuôn mặt hiền như Đức Mẹ, ăn nói hiền lành. Tôi thường gọi nàng là “My high school sweetheart’. Tuổi “teen” mộng mơ yêu đương. Nàng như một “Đoá hoa vô thường” đi nhẹ vào đời tôi như một cơn gió thoảng. Ngày tin nàng “ra đi” đã để lại trong tôi biết bao nhiêu ngậm ngùi và tiếc thương.


Ôi tất cả bạn bè thương mến của tôi thuở trung học ngày xưa nay vắng bóng. Tôi đã cầu nguyện mỗi tối:

Lạy Chúa, xin thương tất cả bạn bè con, những người thương con, và cả những người ghét con, dù họ chỉ đi qua đời con có một lần, xin cho họ và gia đình họ được bình an”.


Chuyến tàu đời chúng ta đang đi đây, kẻ xuống người lên. Bạn bè chúng ta một ngày nào đó lên tàu ngồi cạnh ta, chuyện trò rôm rả, chia vui sẻ buồn, rồi từ từ kẻ xuống trước người xuống sau, bỏ lại mình ta trên con tàu, tất cả chỉ còn lại hình bóng thương yêu của họ.

Tiếc thương, ngậm ngùi…Có phải khi chúng ta sống thọ, chúng ta là người khóc bạn. Ôi tuổi xa người. Tất cả các người thân trong gia đình và bạn bè chỉ đến với chúng ta một thời gian rồi nhẹ bước ra đi.

Những người bạn chân tình ở để thương, đi để nhớ, để ngậm ngùi…

Nhưng quả thật họ không mất. Những người bạn chúng ta thương mến, và thương mến chúng ta, sẽ có ngày gặp lại trên chốn Vĩnh hằng.

Các bạn yêu thương của tôi ơi :”Ce n'est qu'un au revoir".


Ngoài trời, vườn sau chim đã vui hót, mừng một ngày đầu thu có gió mát. Tôi nhìn qua bên tay phải, Kim Chi người bạn đường bao nhiêu năm của tôi vẫn còn nằm đó, hơi thở đều, nàng còn đang ngủ. Ôi Kim Chi, cùng tôi qua bao nhiêu năm lên đèo  xuống dốc, có những ngày hoa nở trên đường, có những ngày nắng chói chang khát khô cổ, có những ngày kinh dị như những hồi phim của Alfred Hitchcock, mà hai chúng tôi cùng là đạo diễn, là người quay phim, và là diễn viên.

Cuộc đời nhìn lại như một giấc mộng dài đủ cả vui buồn, lo lắng, sợ hãi, sung sướng, hay khổ cực. Kim Chi với tôi như bóng với hình có nhau, chỉ xa nhau những tháng ngày tôi đi tù sau 30/4/1975. Nàng ở nhà lo cho con với biết bao nhiêu khổ cực khi đứa con đầu chưa tới 8 tuổi, đứa út chỉ mới 6 tháng.

Hôm nay nhìn lại để thương Kim Chi và tất cả những ai đã đi qua đời tôi, trong đó có những bạn bè thời hoa niên trung học. 

Tôi lại nhớ đến Phạm Đình Vy, anh không học cùng trường trung học với tôi, nhưng rất thân những ngày cùng học ở trường Y, cùng viết trong báo “Tình Thương” của sinh viên Y khoa Saigon ngày đó. Một hôm trong tù tình cờ gặp anh. Anh bảo nhỏ:

“Ghé “moi” chiều nay sau giờ lao động, sẽ cho “toi” một món quà”.

Đó là món quà quý nhất trong đời tôi nhận được từ Vy: một cục đường tán đen, dày và to bằng ba ngón tay. 

Vy ơi, Vy đã ra đi cách đây 7 năm nhưng mình chẳng bao giờ quên Vy trong những phút kinh nguyện trong ngày. Vui nhé Vy, hết đau buồn sầu khổ. Mình còn nhớ một ngày sau buổi lao động, mình và Vy nằm trên Capot một chiếc Jeep phế thải, nhìn bầu trời xanh có mấy cánh chim bay qua, Vy buột miệng nói:

Tùng ơi, “moi” muốn làm cánh chim bay khỏi nơi đây để đi đến bất  đất nước nào, dù làm phu quét đường.”

 Nay Vy đã bay về vùng viên miễn không còn tù đày, khổ cực …


Cảm tạ ơn Thiên Chúa, cảm tạ ơn đời, cảm tạ Kim Chi, cảm tạ các bạn đã đi qua đời tôi , làm cho đời tôi thêm phong phú hơn.


Trường xưa nay đã mất

Bạn bè cũ nay đã xa

Họ đến như cơn gió mát trưa hè

Hay tia nắng ấm mùa đông

Họ đến để thương

Họ đi để nhớ

Để ngậm ngùi tiếc thương…


Comments

Popular posts from this blog

June 30, 2024 60 Năm Sau, Phát Hiện Từ Một Gốc Cây Gây Chấn Động Nước Anh!

October 28, 2023 Con chính là tất cả cuộc đời của mẹ.

March 6, 2024 Việt sử Tân Biên, Phạm Văn Sơn